Trong lịch sử người Chăm sớm tiếp xúc với các nền văn hoá
lớn như Trung Hoa, Ấn Độ, Việt Nam và các quốc gia hải đảo trong khu vực Đông
Nam Á. Chính nhờ sự giao lưu đó, kết hợp với yếu bản địa hình thành nên văn hoá
Chăm độc đáo và đa dạng. Đỉnh cao của quá trình kết tinh văn hoá là những công
trình nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc tôn giáo đền tháp, những lễ hội Yuer
Yang, Katé, Palao Sah và hệ thống lệ tục Rija. Đặc biệt, ngôn ngữ Chăm không
ngừng phát triển đóng vai trò như bà đỡ đẻ cho văn học thức giấc, bước đi. Hơn
17 thế kỷ tồn tại với tư cách là một quốc gia độc lập và có chủ quyền, văn học
Chăm đã để lại cho hậu thế nhiều sáng tác folkore có giá trị. Song song đó, là
những sáng tác văn xuôi phản ánh những biến cố và chuyển động của xã hội trong
thời kỳ hội nhập vào văn chương khu vực và quốc tế.
Tiếp xúc với văn học Ấn Độ, người Chăm lưu truyền tác
phẩm Pram Dit Pram Lak.
Theo tác giả Sakaya, Akayét
Pram Dit Pram Lak là một câu
truyện ngắn có độ dài khoảng dưới 100 câu bằng văn xuôi, nội dung cốt truyện
đơn giản, nhân vật trong cốt truyện không phải là nhân vật anh hùng không đại
diện cho nhân dân, không liên quan gì đến việc thống nhất cộng đồng mà chỉ đơn
giản đơn thuần là đua tài giành được công chúa giữa hai chàng trai. Mặc dù
truyện này có nội dung và tên một vài nhân vật có ảnh hưởng từ nguồn gốc sử thi Ramayana Ấn Độ. TruyệnPram Dit Pram Lak được ghi trong văn học sử Việt Nam là
truyện Dạ Thoa Vương của Chiêm Thành.
Tiếp nhận dòng văn học Mã Lai từ sau thế kỷ XV, người
Chăm có tác phẩm kinh điển như Akayét
Dewa Mâno, Akayét Inra Patra, Akayét Um Mârup. Trong nội dung của các
akayét, yếu tố Islam giáo xuất hiện tạo sự xung đột lớn trong giới cầm quyền
của triều đình Champa. Đó là chưa kể đến những áng văn chương lịch sử ghi lại
những biến cố xã hội ở những khoảng khắc giao thời, chiến tranh và tình trạng
li tán, di dân hỗn loạn.
Thời kỳ Pháp thuộc, người Chăm lưu trú co cụm thành từng
palei ở Panduranga và hoàn toàn xa lạ với thế giới bên ngoài. Tác phẩm Ariya Po Pareng đã ghi chép lại cuộc hành trình của
nhóm một người Chăm đi dọc khắp Việt Nam theo chân một quan lại người Pháp để
tìm hiểu về các phế tích đền tháp Champa.
Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II, người Chăm tiếp xúc
với binh lính Nhật Bản. Những thông tin thú vị ghi chép về sự hiện diện của
người Nhật tại các làng Chăm và Raglai được phản ánh rất cụ thể và sinh động
trong tác phẩm Ariya Nyat
Mbong.
Nối bước, truyền thống say me văn chương, dòng sáng tác
hiện đại sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt làm cơ sở chuyển tải tâm hồn và tư tưởng
Chăm. Mở đầu cho bước đi tiên phong là sáng tác văn, thơ của học sinh Trường
Trung học Pô Klong, Nội san Panrang,
Đặc san Ước Vọng, v.v. Điểm qua những nét sơ lược đủ
thấy rằng, dòng chảy của văn hoá và văn học Chăm như mạch ngầm cứ tuôn trào
liên tục trong mọi giai đoạn lịch sử phát triển của tộc người Chăm.
Nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp với
công trình Văn hoá Chăm (1992), gồm có 392 trang chia làm 4
chương. Từ trang 322-335 có viết về văn học Chăm như truyện cổ tích, truyện
thần thoại, truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích thế sự, truyền thuyết lịch
sử, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, cao dao được giới thiệu một cách sơ lược có tính
chất gởi mở vấn đề cho những nghiên cứu về sau.
Tuy nhiên, để đánh dấu một cột mốc quan trọng trong bước
tiến văn học Chăm phải kể đến sự ra đời của công trình khảo cứu văn học toàn
diện mang tên Văn học Chăm I –
Khái luận của tác giả
Inrasara được công bố vào năm 1994. Tác phẩm này, gồm có 395 trang được phân ra
làm 2 phần chia thành 4 chương. Trong phần 1, tác giả đã đưa ra những nhận
định, quan điểm, đặc điểm văn học và lịch sử nghiên cứu văn học Chăm. Bởi rằng,
trước đó chưa có một công trình nào đưa vấn đề này ra phân tích mang tính hệ
thống. Và nhìn nhận, đánh giá văn học Chăm một cách cụ thể, chi tiết và toàn
diện. Tác giả đã bước vào khu rừng nguyên sinh rậm rạp để rồi tự xây dựng tư
liệu, phương pháp tiếp cận vấn đề và phân chia các thể loại văn học. Nếu như
trong chương 1 tác giả chỉ trình bày về thuận lợi và khó khăn trong quá trình
nghiên cứu hay chỉ phân tích những khía cạnh độc đáo, đặc thù riêng của văn học
Chăm. Thì, từ chương 2, chương 3 tác giả đi sâu vào phân tích văn học dân gian
và văn học viết một cách cụ thể.
Trong văn học dân gian, tác giả đưa ra quan niệm về các
thể loại văn học như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, thành
ngữ, câu đố, ca dao và đồng dao. Như vậy, kho tàng của nền văn học Chăm cũng
khá đa dạng, có đủ loại hình văn học như nền văn học của các quốc gia ở phương
đông.
Trong văn học viết, tác giả đã phân tích và phân loại
từng tác phẩm tương ứng với nội dung và hoàn cảnh ra đời. Đây là một việc làm
rất ý nghĩa và mang tính khoa học cao. Lần đầu tiên, những văn bản chép tay của
người Chăm được tập hợp lại, chuyển tự và dịch sang tiếng Việt. Qua đó, chúng
ta thấy được bước tiến của văn học Chăm tịnh tiến cùng với dòng thác lịch sử
ghi lại những biến cố, sự kiện, dư luận và thân phận của con người trong xã hội
đó. Các sử thi Akayét Dewa
Mâno, Akayét Inra Patra, Akayét Um Mârup, Akayét Pram Dit Pram Lak, các Ariya
Bini-Cam, Ariya Cam-Bini, Ariya Sah Pakei, Ariya Mâyut, Ariya Nasak Asaih,
Ariya Po Thien, Ariya Po Pareng và Muk Thruh Palei .v.v. được mang ra phân tích ở khía
cạnh văn học để làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Ngay sau Văn
học Chăm I – Khái luận, Inrasara cho xuất bản Văn học Chăm II – Trường ca và Tục
ngữ – Thành ngữ – Câu đố trong
cùng năm 1995. Trong hai tác phẩm này, tác giả đưa ra các văn bản tiếng Chăm
với phần dịch Việt ngữ và chú thích cần thiết như là để minh họa cho phần phân
tích ở tập I. Đây là bộ ba làm tiên đề cho các tập sưu tầm – dịch thuật của tác
giả này sau đó: Văn học dân
gian Chăm (2006), Ariya Cam – Trường ca Chăm (2006), Sử thi Chăm (2013) vân vân.
Tác phẩm Văn
hoá Chăm nghiên cứu và đối thoại (2003)
của Inrasara gồm có 353 trang chia ra làm 4 phần. Trong chương II và chương
III, có bài viết “Mấy vấn đề
về sưu tầm văn học Chăm”. Tác giả đưa ra nhận định khái quát về thành tựu
nghiên cứu văn học Chăm từ thời Pháp thuộc đến những năm thập niên 90 của thế
kỷ XX. Sau khi điểm qua các thể loại văn học dân gian, văn kia ký, văn học
viết, tác giả đánh giá về những điểm thiếu sót, thiếu chính xác của các tác giả
khi nghiên cứu và công bố về văn học Chăm. Từ đó, đặt ra những vấn đề còn tồn
tại trong công tác nghiên cứu và phê bình văn học. Bài viết “Xung quanh việc công bố Akayet
Dewa Mưno đặt lại vấn đề nghiên cứu văn học Chăm”. Tác giả trình bày về
nhận thức các Akayet Chăm qua các thời kỳ khác nhau. Qua đó, làm rõ những điểm
chưa chuẩn xác về mặt văn bản của tác giả Moussay và Po Dharma hay bản dịch Hoà
Nô của Tùng Lâm và Quảng Đại Cường từ việc tóm tắt cốt truyện đến việc phân
tích các dị biệt và tương đồng của văn bản. Cuối cùng, tác giả kết luận, cần
phải thận trọng trong nghiên cứu và công bố về văn học Chăm. Bài viết “ Để văn học dân tộc thiểu số phát
triển”. Tác giả nhận diện về sự tương đồng của văn học Chăm so với các sáng
tác của tộc người ở Nam trung bộ và Tây Nguyên. Và khẳng định, sở dĩ văn học
của các tộc người thiểu số chưa phát triển là do thiếu sách, báo viết bằng ngôn
ngữ dân tộc thiểu số.
Song song với các công trình khảo cứu, tác giả Inrasara
cũng cho ra mắt các tập thơ Tháp
nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng (1997), Hành hương em (1999), Lễ Tẩy trần tháng Tư (2002), Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài
thơ tân hình thức (2006).
Năm 2000, Inrasara cùng với Trà Vigia, Trầm Ngọc Lan,
Nguyễn Văn Tỷ sáng lập đặc san Tagalau - Tuyển tập sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu Chăm đã ấn hành được 15 số (năm 2014). Tuy
không phải là tạp chí khảo luận chuyên sâu, nhưng Tagalau có
nhiều bài viết giá trị về văn hóa Chăm. Đặc biệt là lĩnh vực văn chương, Tagalau đã
công bố và phân tích các tác phẩm kinh điển trong kho tàng văn học Chăm cổ
điển.
Trung tâm Văn hóa Chăm Ninh Thuận cũng cho ra đời tác
phẩm Truyện cổ dân gian Chăm (2000) do Trương Hiến Mai, Nguyễn Thị
Bạch Cúc, Sử Văn Ngọc, Trương Tốn biên soạn, dịch, tuyển chọn. Nội dung của các
truyện cổ tích Chăm đặc sắc được dịch sang tiếng Việt.
Tác giả Trà Vigia với tập truyện “ Chăm Hri” (2008), gồm 195 trang với 7 truyện
ngắn: Dạ hội thần tiên, Người đàn bà hát, Người đi tìm linh hồn, Ăn chữ, Vương
miệng của vị vua cuối cùng, Bàu Trúc, Chăm Hri.
Văn học Chăm hiện đại – Thơ (2008). Là những sáng tác của các tác giả người Chăm sử
dụng ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Chăm trong tác phẩm thơ. Hơn 100 tác phẩm thơ
của 20 tác giả Jalau Anưk, Bá Minh Trí, Chế Mỹ Lan, Diễm Sơn, Huy Tuấn, Huyền
Hoa, Jalau, Inrasara, Kahat, Lộ Trung Thiện, Mih Tơm, Quỳnh Chi, Simhapura,
T.T. Tuệ Nguyên, Thạch Giáng Hạ, Trà Ma Hani, Trà Thy Mưlan, Trà Vigia và Trầm
Ngọc Lan. Sáng tác thơ tiếng Chăm có 43 bài thơ với 10 tác giả Cahya Mưlơng,
Đặng Tịnh, Hlapah, Jaya Hamu Tanran, Minh Trí, Phú Đạm, Phutra Noroyo,
Inrasara, Jaya Yut Cam, Trà Vigia.
Viện nghiên cứu văn hoá “Tổng
tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam” (2010), gồm có 824 trang. Trong đó, có
đăng các truyện cổ tích Chăm bằng tiếng Chăm, chuyển ngữ Latinh và dịch sang
tiếng Việt như Asaih rambah
nao pacah akhar, Athau nao yak manuis, Baoh gaong, Ja Blek bleng mâ, Ja Blek
saong hadiep pasang ra mada, Ja Nyaok ka, Ja Parang saong Ja Paraik, Kadin
kadah, Kataong pabum iklum jak, Khik sa takai, Maduen Juk, Palue cei yuak
ralaoh.
Tác giả Inrasara với công trình “Ariya” (2006), gồm có 518 trang chia làm 2
phần: Dẫn nhập và phân tích tác phẩm. Tác phẩm Ariya công bố cácAriya Xah
Pakei, Ariya Cam-Bini, Ariya Glơng Anak, Po Parơng. Ở mỗi tác phẩm Ariya
tác giả đều làm rõ hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của
tác phẩm. Đặc biệt, cho đăng nguyên tác bằng tiếng Chăm, chuyển ngữ latinh và
dịch sang tiếng Việt.
5 năm sau tác giả Inrasara công bố công trình “Văn học Chăm khái luận” (2011), gồm có 302 trang. Tác phẩm này
là cuốn tái bản công trình Văn
học Chăm (1994). Tác giả có
đưa thêm một số nội dung mới ở phần phụ lục các bài viết: Để hiểu văn chương
Chăm, Văn học Chăm hiện đại, Nhập cuộc về hướng mở trong sáng tác văn chương
Chăm hiện đại, giới thiệu các tác giả Chăm như Inrasara, Trầm Ngọc Lan, Trà
Vigia, Jalau Anưk, Chế Mỹ Lan, Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Bá Minh Trí, Diễm
Sơn, Sơnputra, Tuấn Huy, Thạch Giáng Hạ. V.v
Trên lĩnh vực văn xuôi tác giả Inrasara cho ra mắt hai
cuốn tiểu thuyết Chân dung Cát (2006) 296 trang và Hàng Mã ký ức (2011) gồm có 363 trang với 12 mẫu
chuyện lắp ghép theo kiểu hậu hiện đại: Cha mẹ, anh chị em & con sông quê
hương, Những đứa con của Đất & cuộc sống trần gian, Đi như là ở lại, Chuyện
chữ, Tinh thần tuỳ tiện Chăm & thông điệp Glơng Anak, Lịch sử như là mớ hổ
lốn, Thế hệ chuyển tiếp, Ma Hời, Chăm đau khổ, kiêu hãnh và bí ẩn, Bốn cứu cánh
của đạo sĩ Bà la môn giáo & thơ, Vượt qua cô đớn sử tính, Thơ như là con
đường. Hàng mã ký ức đã đưa độc giả về với ánh trăng rằm của palei Chăm để thấy
họ sống và yêu thương nhau vượt qua bao nỗi gian truân thường nhật.
Tác giả Sử Văn Ngọc với công trình “Văn hoá làng truyền thống người
Chăm tỉnh Ninh Thuận” (2010).
Gồm có 260 trang, trong đó, có đăng tải một số sáng tác thơ bằng tiếng Chăm như Ariya Po Pareng, Ariya Mayut Po
Thiên, Ariya Ahaok Par, Ariya Kuu Nyeng, Ariya Su Auen Bhum. Những sáng tác
này được chuyển ngữ sang chữ Chăm Latinh và dịch sang tiếng Việt.
Ba năm sau tác giả Sử Văn Ngọc công bố công trình “Lời người xưa” (2013), gồm 311 trang có 956 câu lời
hay ý đẹp của người Chăm, lời châm biếm, răn đe, giáo dục, nhận cách hoá con
vật với con người, lời ẩn dụ. Đây là những tư liệu ghi chép của tri thức dân
gian Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận khai thác từ nguồn tư liệu của Thiên Sanh
Cảnh, Thiên Thiện, Đàng Năng Phương, Đàng Cải, Nại Thành Bô, Nại Thành Viết,
Phú Trợ, Imâm Thông Kỳ, Maduen Thông Có, Bố Xuân Hổ, Đàng Năng Bĩnh, Qua Đình
Bồi, Bố Xuân Hổ, Thông Minh Trà, Trượng Văn Ngọt, Đàng Khang, Đổng Văn Tiên,
Imâm Thiên Rơng và Thành Nha.
Tác giả Sakaya với công trình “Tiếp cận một số vấn đề văn hoá
Champa” gồm có 814 trang chia
làm 6 chương. Trong chương IV, tác giả có dành những trang viết về văn học
Chăm. Tác giả trình bày về thực trạng các văn bản chép tay Chăm từ trước và sau
năm 1975, các tư liệu viết trên lá buông, giấy. Bài viết “Văn chương Chăm gợi mở cách tiếp
cận mới” trình bày về lịch sử
nghiên cứu văn chương Chăm, phân loại văn chương ra thành các thể loại văn
chương cổ, văn chương đương đại, và văn chương hiện đại. Trên cơ sở đó, tác giả
đặt ra những thuật ngữ trong văn chương Chăm như Dalikal, Ariya, Akayét, Paoh
Catuai, Ar Bingu, Adaoh Tei ley, Hatai Paran, Dâmnây, Ampam, Adaoh Kadhar,
Maduen, Kasa, Puec Jan, Adaoh Yaw, Panuec Yao, Panuec Pa-ndip, Baoh Kadha,
Kadha Ranaih Adaoh.
Gần đây, những tập thơ của các tác giả trẻ sáng tác bằng
tiếng Việt như Tuệ Nguyên với tập thơ “Những
giấc mơ đa chiều”, Đồng Chuông Tử với tập thơ đầu tay “Thèm ăn” và “Mùi thơm của im lặng”,
Chế Mỹ Lan với tập thơ “Em và
màu mây qua tháp”, Kiều Maily
với tập thơ đầu tiên“ Giữa hai khoảng trống”. Mỗi người mỗi vẻ mang một
sức sống và hơi thở lạ từng bước chiếm lĩnh mảnh đất thi ca Việt.
Ở nước ngoài, Po Dharma, Moussay, Abdul Karim, Nicolas
Weber, Abdullah Zakaria Bin Ghazali cũng đã đưa các Akayét Dewa Mano, Akayét Inrapatra,
Akayét Um Marup so sánh với
Hikayat của Mã Lai.Từ đó, các tác giả có những phân tích đối chiếu, làm rõ
nguồn gốc của các Akayét Chăm là có sự vay mượn từ các Hikayat của Mã Lai.
Ngoài ra, Abd. Karim (Lộ Trung Cân) và Báo Thị Hoa cũng cho ra mắt tác phẩm “Trường Pô Klong và Đặc san Ước
vọng” (2007). Tác phẩm này,
là sự tái bản các bài viết về văn chương của học sinh Trường Pô Klong đã phát
hành qua 5 số từ 1968-1973. Bên cạnh đó, là những bài viết trong Đặc san Caong
Tagok cũng được giới thiệu.
Tóm lại, trong khoảng thời gian 20 năm (1994-2014), những
công trình nghiên cứu về văn học Chăm có sự gia tăng nhanh về mặt số lượng. Các
tác phẩm kinh điển trong nền văn học Chăm được giới thiệu bằng nhiều hình khác
nhau như chuyển tự, dịch sang tiếng Việt, Mã Lai, Pháp và đăng nguyên tác bằng
tiếng Chăm. Theo thời gian các sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ bị chững lại và mất
dần, thay vào đó là sự lên ngôi của các sáng tác bằng tiếng Việt phát triển
nhanh về số lượng tác giả và tác phẩm. Văn học Chăm đang trượt dài trên đường
băng tiếng Việt và không hè có dấu hiệu dừng lại. Nếu như những sáng tác văn
chương của người Chăm trước 1954 vẫn còn sử dụng phổ biến tiếng Chăm thì càng
về sau tiếng Việt đã chiếm lĩnh vai trò chủ đạo. Phải chăng sáng tác văn học
bằng tiếng Việt của các tác giả người Chăm là một trào lưu hay là con đường
ngắn và nhanh nhất đưa ngôn ngữ Chăm đi vào tử ngữ ! ./.
Jaya Bahasa
Tài liệu tham khảo
1. Champaka 6. 2007. Trường Pô Klong & Đặc san Ứớc
vọng. Paris-San Jose.
2. Inrasara. 1994. Văn học Chăm. Hà Nội: Nxb. Văn
hoá dân tộc.
3. Inrasara. 2003. Văn hoá xã hội Chăm nghiên cứu và
đối thoại. Hà Nội: Nxb. Văn học.
4. Inrasara. 2005. Lễ Tẩy trần tháng Tư. Tp. Hồ
Chí Minh: Nxb. Văn nghệ.
5. Inrasara. 2006. Ariya. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Văn nghệ.
6. Inrasara. 2011. Hàng mã ký ức. Hà Nội: Nxb. Văn
học.
7. Inrasara. 2011. Văn học Chăm khái luận. Hà Nội: Nxb. Tri thức.
8. Inrasara. 2013. Thả diều xứ nắng. Hà Nội: Nxb.
Kim đồng.
9. Nhiều tác giả. 2008. Văn học Chăm hiện đại Thơ. Hà
Nội: Nxb. Văn học
10. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp. 1992. Văn hoá Chăm. Hà Nội: Nxb. Khoa
học xã hội.
11. Po Dharma, G.Moussay, Abdul Karim. 1997. Akayet
Inrapatra. Malaysia.
12. Po Dharma, Nicolas
Weber, Abdullah Zakaria Bin Ghazali. 2007. Akayét Um Marup. Malaysia.
13. Sakaya. 2013. Tiếp cận một số vấn đề văn hoá
Champa. Hà Nội: Nxb. Tri thức.
14. Sử
Văn Ngọc. 2010. Văn hoá
làng truyền thống người Chăm tỉnh Ninh Thuận. Hà Nội: Nxb. Dân trí.
15. Sử Văn Ngọc. 2013. Lời
người xưa. Hà Nội: Nxb. Văn hoá thông tin.
16. Trà Vigia. 2008. Chăm
Hri. Hà Nội: Nxb. Văn hoá dân tộc.
17. Viện nghiên cứu văn hoá. 2010. Tổng
tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 20. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com