Trà Vigia |
Nói đến dân tộc Chăm, người ta thường
hình dung đến những ngôi tháp Chàm cổ kính uy nghiêm đứng trầm mặc trên đồi cao
phơi nắng gió ơ hờ nhìn thời thế đổi thay. Đó không là điều lạ biệt bởi những
quần thể tháp Chàm không chỉ là di sản văn hóa quốc gia mà còn là của thế giới
được Unesco công nhận bảo vệ trùng tu… Một nền kiến trúc, điêu khắc phơi bày
cùng ẩn chứa bao bí mật tiềm tàng mà ngày nay con người văn minh chưa thể giải
mã hết được! Tuy nhiên, đấy mới
chỉ là lớp vỏ bề ngoài, cái sâu thẳm vẫn là những gì được gói ghém trong tâm
hồn Chăm qua từng trang Ariya đang từng ngày chìm vào phôi phai quên lãng. Một
nền văn minh huy hoàng thuở nào nay đang hấp hối dưới cái nhìn vô tình của loài
người mà đúng ra chúng ta có thể học được nhiều điều với một chút thiện tâm thì
cuộc sống này có lẽ nhẹ nhàng hơn, tươi đẹp hơn chăng?!
1. Đường vào Ariya:
Chăm có chữ viết bản địa vào thế kỷ thứ
IV. Bản thân chữ viết cưu mang và chuyên chở thông tin tư tưởng của thời đại
qua quá trình hình thành và phát triển. Hơn 1000 năm, nền văn hóa ấy đã để lại
những gì giờ chỉ còn là vết mờ lịch sử. Tất cả đã hóa thân vào tro bụi nên
không thể định lượng được thời hoàng kim của văn chương Chăm có diện mạo như
thế nào và có bao nhiêu tác phẩm đã ra đời. Những tác phẩm còn lưu lại đến hôm
nay chỉ mới xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ XVIII không là bao nhiêu so với gia
tài nguyên nguyên thủy. Nhưng vẫn là may mắn, vẫn còn rớt rơi vài tuyệt phẩm mà
đáng tiếc thay hậu duệ Chăm hôm nay không còn hứng thú tiếp nhận hay ngó ngàng
tới. Đúng là: “Bhian drơp ngak ralo piơh hapak khing ka thraung”(1). Bấy nhiêu
thôi mà không giữ gìn vun xới, nói chi cả một kho tàng cũng chỉ để hoài phí mà
thôi! Có lẽ nên: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân” để nhắm mắt đưa chân vậy.
Bài học đầu tiên của bất kỳ sinh linh
nào cũng là tập nói tiếng mẹ đẻ, sau đó học chữ để trang bị kiến thức làm người
và sống cho ra người. Mỗi ngôn ngữ của từng dân tộc đều có nét đặc thù riêng và
điều đó quy định lối tư duy, biểu đạt và ứng xử của mỗi cá thể trong cộng đồng
trong nhiều tình huống khác nhau nhưng luôn thống nhất trong tư tưởng và hành
động đang hiện tồn hay mất đi mà chúng ta định nghĩa là lịch sử. Con đường vào
Ariya được bắt đầu như thế, bập bẹ tiếng mẹ rồi đánh vần chữ cha ông, được ru
ca dao hát đồng dao, ứng đối tục ngữ thành ngữ… Những cái đấy dần đi vào máu
thịt để rồi một ngày nào đó chúng ta ngâm nga ariya và sẵn sàng vào cuộc chơi
sáng tạo.
Hành trình vào ariya có lẽ được dẫn dắt
bằng những bước đi chập chững nhưng đầy khó nhọc theo một lộ trình không định
trước tùy theo từng hoàn cảnh điều kiện. Những gì còn sót lại chỉ có thể là:
- Ariya patauw adat Chăm gồm có: Ariya
Muk Thruh Palei, Ariya Patauw Adat Kamei, Ariya Patauw Adat Likei…
- Ariya ký sự thời sự như: Ariya
Po Parơng, Ariya Rideh Apwei, Ariya Ơk Lipa…
- Ariya thời sự lịch sử: Ariya
Twơn Phauw, Ariya Kalin Thak Wa, Ariya Kalin Nưsak Asaih…
- Ariya trữ tình: Ariya
Xah Pakei, Ariya Cam Bini, Ariya Bini Cam… cùng những sáng tác cận
đại như Ariya Mưyut, Kei Oy, Po Thien…
- Ariya mang tính sử thi như: Akayet
Dewa Mưno, Akayet Inra Patra, Akayet Um Mưrup…
- Ariya xakarai triết lý về nhân sinh
quan, vũ trụ quan: Ariya Nau Ikak, Jadar, Ar Bingu, Hatai Paran, Dauh Tơy lơy…
- Ariya triết luận thế sự: Ariya
Glơng Anak, Pauh Catwai…(2)
Ngoài ra còn có những bài Damnưy (tụng
ca) của Ong Mưdwơn, Danak (thánh ca) của Ong Kadhar hay những bài Kalơng (thần
chú) của Gru Urang đều mang tính văn hóa văn chương cần khám phá và bảo tồn. Đó
là bổ trợ cần thiết cho vốn liếng văn chương Chăm còn lại không nhiều. Qua đó
chúng ta thấy rằng: Con đường tìm và hiểu ariya thật lắm nhiêu khê gập ghềnh
không chỉ bởi sự lãng quên quá lâu mà còn chi phối bởi nhiều yếu tố khác. Trở
lực trước nhất là chúng ta không có vạch xuất phát rõ ràng, tiếp theo là mọi người
đánh mất niềm tin vào truyền thống. Từ đó dẫn đến hậu duệ Chăm ngày càng xa rời
ariya Chăm, xa rời bản sắc văn hoá, lạc mất cội nguồn và trôi đi nhạt nhòa vào
chân trời vô định!
2. Đi là ở lại:
Như đã dẫn nhập ở trên, để thấu hiểu
tâm hồn Chăm cần đi sâu vào Ariya để nhận diện đúng bản chất mà ngày nay đã ít
nhiều biến dạng trong sinh hoạt đời thường cùng tư duy nhận thức. Chúng ta men
từng nấc thang đi dần từ dễ tới khó, từ thấp lên cao, từ gần đến xa… để bắt đầu
làm quen với Ariya Glơng Anak. Có thể nói đây là thi phẩm nổi tiếng
nhất của Chăm cả về tính phổ cập bình dân cũng như đỉnh cao bác học. Ngày
trước, dường như bất cứ một người Chăm nào cũng thuộc và ngâm nga vài câu, vài
đoạn Ariya Glơng Anak để
biện giải sự đời hay chỉ để ru mình và ru người. Đó là một chủ đề cốt lõi để
mỗi cá nhân xác lập kiến thức của mình cùng thế đứng trong cộng đồng, uy tín
trong xã hội… Tại sao Ariya Glơng Anak lại
có tầm ảnh hưởng đến thế và cũng tại sao ngày ngày ariya này dần xa rời thế hệ
trẻ Chăm hay sự quan tâm của đội ngũ trí thức?! Theo tôi có mấy lý do sau:
- Thời thế đổi thay: Chữ nghĩa Chăm
không còn mang tính ứng dụng thực tiễn, nói nôm na là không còn phương tiện
thiện xảo để mưu sinh (oh buh tamư gauk lisei hu) một khi chúng ta theo học
chương trình phổ thông từ vỡ lòng đến sau đại học. Có học thêm ngôn ngữ khác
thì tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga… để bổ trợ. Còn muốn có vai trò tư thế
trong xã hội khả dĩ vinh thân phì gia thì phải có chức vị học vị hoặc thành đạt
trong kinh doanh dịch vụ. Không hiểu văn hóa Chăm cũng chẳng sao! Chết đi cũng
được làm đám tang về chầu tiên tổ.
- Ngôn ngữ Chăm trong ariya mang tính
bác học uyên thâm, nếu không được trang bị căn cơ mang tính kế thừa thì rất khó
tiếp cận và tiếp thu. Chưa nói đến một bộ phận khác trong lễ nghi, phong tục
tập quán chỉ thực thi theo quán tính, cảm tính cũng dần mất đi ý nghĩa nguyên
thủy và ngày càng không hợp lý hợp thời.
- Môi trường sống của người Chăm không
còn thuận lợi để duy trì và phát huy nét đặc thù sinh hoạt văn hóa Chăm. Tâm
điểm văn hóa Chăm được hiểu và lý giải theo hệ quy chiếu khác làm lệch lạc cách
đọc và cảm, cách làm và diễn… Nghệ thuật bị sân khấu hoá, nâng cao cách điệu
máy móc dần vô tình đánh mất bản sắc.
Để hiểu một tác phẩm như Ariya
Glơng Anak quả là
gian nan, nhưng chẳng lẽ chúng ta cứ trân trối nhìn viên ngọc trong đá nằm hoài
hoang phế theo thời gian để một ngày lịm tàn vào tro bụi lòng người lòng đời
hoang hoải!
a. Mồng 10 tháng 2:
Một điểm son trong Ariya
Glơng Anak là có ghi rõ ngày tháng năm được viết mà
thông thường không có ở bất kỳ ariya nào khác. Đây là điểm khác biệt và cũng là
yếu tố quan trọng để xác định bối cảnh lịch sử lúc tác phẩm ra đời cùng nội tâm
ngoại cảnh tác giả đang sống và viết. Đây là manh mối đầu tiên mà nếu chúng ta
nhầm lẫn thì không còn biết đường nào mà lần nói chi biết ngõ mà ra. May thay!
Kumi xarak di dalơm ariya
Nưsak pabaiy bilan dwa sa pluh bingun Xuk tanrwah.
Nưsak pabaiy bilan dwa sa pluh bingun Xuk tanrwah.
(dịch thơ)
Ta ghi trong tập thơ này
Mồng mười tháng hai thứ Sáu năm Ất Mùi.
Mồng mười tháng hai thứ Sáu năm Ất Mùi.
Trở ngược thời gian về quá khứ nơi ngày
tháng ông bắt đầu chấp bút viết trang ariya bất tử này. Theo lịch pháp, thiên
can địa chi của mười hai con giáp cứ luân chuyển trong chu kỳ sáu mươi năm.
Lịch Chăm ngày xưa có lẽ tính theo lịch Sakti (Sakti Calendar) của Ấn Độ, từ
sau thế kỷ XVII chịu ảnh hưởng lịch Hồi giáo nên dung hòa hai phép tính trên
thành ra lịch hỗn hợp cho khớp với ngày tháng phục vụ lễ nghi cho cả hai bên
tín đồ. Phép tính này dùng phương thức Gwơr và Gwơc (chặn và móc) để điều chỉnh
cho ngày tháng phù hợp với ngày thứ trong tuần lễ để có những ngày tháng nhất
định cho Lễ hội, giỗ chạp, đám tang đám cưới… Cách tính có hơi phức tạp và có
nhiều quan điểm khác nhau nhưng tựu trung vẫn nhất quán với Dương lịch và Âm
lịch chúng ta đang dùng thời nay. Ngày, thứ, năm, tháng đều giống nhau nhưng
luôn đi sau Dương lịch 3 tháng và Âm lịch 2 tháng. Ví dụ Katê đầu tháng 7 Chăm
lịch thì rơi vào tháng 10 Dương lịch và tháng 9 Âm lịch. Ngày trong tháng
thường trước Âm lịch 1 ngày, đôi khi trùng khớp. Chịu khó một chút chúng ta lần
ra Thứ Sáu mồng 10 tháng hai năm Pabaiy Jim là Thứ Sáu mồng 9 tháng 4 năm Đinh
Mùi, nhằm vào Thứ Sáu ngày 25 tháng 5 năm 1787. Một ngày quá xa để nhớ để quên!
Thời điểm ấy là một giai đoạn lịch sử
vô cùng đen tối. Anh em Tây Sơn lấy chính nghĩa phò Lê dẹp Trịnh diệt Nguyễn
nên chiến sự xảy ra liên miên, dân tình khốn đốn. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi
chết! Dĩ nhiên dân Chăm luôn ở giữa hai gọng kềm trên hai đầu chiến tuyến không
biết phải theo ai, nương nhờ vào ai để sống còn và luôn là vật hy sinh cho
những thế lực tranh chấp. Còn giai cấp quý tộc trí thức Chăm thì sao?
Dalơm o drơh norapat sa kaya
Urang bihuh bihah biha bihi rakơng hu abih…
Urang bihuh bihah biha bihi rakơng hu abih…
(dịch thơ)
Tâm hồn ta không còn đâu tầm quý phái
Phường giá túi áo cơm đâu khỏi để bị người mua chuộc…
Phường giá túi áo cơm đâu khỏi để bị người mua chuộc…
Ở bên trong, trung tâm đầu não Chăm,
chỉ là bù nhìn theo cơ cấu mặt trận chỉ là hư vị không có thực quyền. Chỉ là
một chiêu bài chính trị mặc dù vẫn có tước phong Phiên vương nhưng không bênh
vực bảo vệ được tính mạng dân Chăm. Còn bốn giai cấp tăng lữ quý tộc thứ dân nô
lệ người ta đều mua chuộc sai khiến không chừa một ai.
Tác giả đã tự hỏi:
Gram Xarawan dwix di hagait blauh o thah
Bbai tapuh di grơp nưrah tagrang kađaung pak halei?!
Bbai tapuh di grơp nưrah tagrang kađaung pak halei?!
(dịch thơ)
Đất nước tội chi mà chưa được cứu thoát
Đã dâng chuộc khắp sứ nào khác, còn vướng mắc nơi đâu?!
Đã dâng chuộc khắp sứ nào khác, còn vướng mắc nơi đâu?!
Gram có nghĩa là dòng tộc quý phái lâu
đời từ thuở khởi thuỷ. Ở đây Gram Xaravan chỉ bộ tộc Cau là tổ tiên khai phá
miền nam Champa gồm Kauthara và Panduranga, đối trọng với bộ tộc Dừa vốn ở phía
bắc thuộc Amaravati và Vijaya. Vì thời cuộc tộc Dừa biến mất hay thiên di đi
nơi khác. Nhưng hôm nay dân tộc Cau muốn sống yên ổn an phận vẫn không được cho
dù đã nhẫn nhục chịu đựng bằng hết phương cách ngay cả cứu chuộc trong tâm linh
vẫn không hiểu nổi nguyên do còn vướng đọng nơi nào!
Tơl thun nưsak asaih nan ra brei
Apwei kadhir bbơng palei nưgar Thrai Drut mưrai.
Apwei kadhir bbơng palei nưgar Thrai Drut mưrai.
(dịch thơ)
Đến năm ngọ người sẽ ban giao
Lửa thiêng cháy xóm thôn làm u ám rủ buồn.
Lửa thiêng cháy xóm thôn làm u ám rủ buồn.
Đến năm Bính Ngọ 1786 người cho lửa đạn
cháy xóm thôn và đó là lúc quân Xiêm đến. Bilan tajuh Langka mưrai sumu/ Kluw pakar mai saung nhu Kawei
angan Bhum Kawei. Tháng 7 năm ấy quân Pháp cũng vừa kịp đến. Ba sự
kiện ấy là liên quân Nguyễn Ánh, quân Xiêm, quân Pháp cùng hợp lực đối phó với
quân Tây Sơn. Lưu ý: Kawei tiếng Chăm có nghĩa là Hồ (nước). Anh em Tây sơn gốc
người Nghệ An nguyên thủy có họ Hồ, sau này mới đổi thành họ Nguyễn. Tên tộc
của Nguyễn Huệ là Hồ Thơm. Tác giả nhân cách và hoán dụ từ này độc đáo quá
thành bí hiểm!
Grum mưnhi kluw yava tatrok di drei
Praittik jang mưgei tajot xala jang tatwơn.
Praittik jang mưgei tajot xala jang tatwơn.
(dịch thơ)
Ba tiếng sấm vang to làm chột dạ này
Mặt đất cũng lung lay, triều đình cũng rúng động.
Mặt đất cũng lung lay, triều đình cũng rúng động.
Ba tiếng đại bác bắn hiệu lệnh như ba
tiếng sấm rền khiến vũ trụ lung lay, âm cung rúng động nói chi lòng người đang
nơm nớp lo âu sợ hãi. Thật ra những sự kiện lịch sử ấy đã xảy ra từ mấy năm
trước. Năm 1783, quân Tây Sơn đại phá quân Nguyễn ở Gia Định và lùng bắt chúa
Nguyễn khắp mọi nơi. Cùng đường, Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Phú Quốc, rồi một
mặt cho Giám mục D’Adran (Bá Đa Lộc) đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin cầu viện,
một mặt tự thân đi xin viện binh ở Xiêm La (tháng 2 năm Giáp Thìn 1784). Tháng
6, chúa Nguyễn theo đại quân Xiêm (2 vạn và 300 chiến thuyền) về chiếm lại vùng
Hậu Giang. Nguyễn Nhạc nghe tin liền sai Nguyễn Huệ đem thủy quân vào tiêu diệt
hoàn toàn quân Xiêm ở Xoài Mút. Chúa Nguyễn lại chạy ra biển Tây Nam rồi sang Xiêm tị nạn vào năm 1785 rồi ở luôn
tại Bangkok .
Đến tháng 7 năm Đinh Mùi mới trốn về Gia Định khi nghe tin anh em Tây Sơn bất
hòa khi Nguyễn Huệ bao vây Nguyễn Nhạc ở thành Phú Xuân. Sự kiện đó khiến tác
giả ám ảnh và tiên liệu cuộc chiến sắp diễn ra sẽ khốc liệt hơn, và dân Chăm sẽ
càng điêu đứng hơn. Phải làm gì để sống sót?!
b. Glơng Anak ông là ai?
Ông có ghi rõ ngày tháng lúc viết nhưng
không để lại tên tuổi. Thật tiếc nhưng không sao bởi vì ông muốn thế. Tinh thần
vô danh Chăm là như thế! Một người trí thức đúng nghĩa không phải sống trên đầu
dân mà sống trong lòng dân, đau nỗi đau của dân, sẵn sàng chia sẻ gánh vác
những gì mà người khác không thể làm được. Thôi cứ gọi ông là ông Glơng Anak
vậy. Ông đã sinh ra trên mảnh đất này và rồi ông sẽ hóa thân vào lòng đất này
một khi ông không còn làm gì được nữa, một khi không còn hy vọng vào một ai. Lẽ
thường thì: Urang jiong di mik saung va, lẽ nào mình mư-aum cangwa kauh gai
patauk? Phải tìm một con đường trong mịt mù hỗn mang lòng người điên đảo. Bầu
trời ta hướng đến là lòng dân chứ không thể là một vòm nia nhỏ bé chờ lọt sàng
chỉ đủ cho một thân sống nhục!
Thái độ trí thức:
Glơng anak linhaiy likuk jang o hu
Bhian drơp ngak ralo piơh hapak khing ka thraung
Bhian drơp ngak ralo piơh hapak khing ka thraung
Panrang Kraung Parik Pajai halei gilaung
Kiem basei khing ka raung kacwơc tabiak jiơng darah…
Kiem basei khing ka raung kacwơc tabiak jiơng darah…
(dịch thơ)
Nhìn trước ngoảnh sau còn ai đâu
Gia sản để lại nhiều, cất nơi nào cho an
Phan Rang, Phan Rí, Lòng Sông, Phú Hài đâu là con đường?
Quyết nhai sắt cho vỡ tan, hai hàm răng ta vỡ nát…
Gia sản để lại nhiều, cất nơi nào cho an
Phan Rang, Phan Rí, Lòng Sông, Phú Hài đâu là con đường?
Quyết nhai sắt cho vỡ tan, hai hàm răng ta vỡ nát…
Glơng trong tiếng Chăm có nhiều nghĩa
tùy theo văn cảnh ngữ cảnh và ngay trong tâm cảnh. Glơng có nghĩa là nhìn thấu
suốt vào đúng bản thể của một sự kiện vấn đề; Glơng có nghĩa là trông nom chăn
dắt một con người hay một đàn súc vật; Glơng cũng có nghĩa là bói toán tiên
đoán những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong quá khứ hiện tại và tương lai. Tùy
vào cách nhìn và góc nhìn, mỗi người có thể hiểu một trong ba ý hay hàm ý cả 3
nghĩa cùng lúc cũng không sao. Nhìn trước ngoái sau đều vô vọng! Nhìn và ngoái
để làm gì? Có thể ông tìm một con người cụ thể nào đó cùng chí hướng để đồng
hành nhưng vô vọng. Hay ông đang tìm một con đường, một lối thoát nhưng vô
phương! Cũng có thể ông đang suy tư tìm một kế sách để giải tỏa những bế tắc
trong nỗi dằn vặt nhưng vô ích… Của cải vật chất con người tạo dựng từ mấy ngàn
năm nay cất giữ nơi nào cho khỏi tiêu tan, văn hóa văn minh truyền đời từ bao
thế hệ lẽ nào đến đây chấm dứt?! Bốn vùng Chăm còn lại không còn một lối thoát…
nhưng ông không tuyệt vọng, ông tự nhủ lòng và khuyên mọi người rằng vẫn còn
một con đường trong ý chí và nhẫn nhục. Để vượt qua gian khó hiểm nguy cũng
giống như ta nhai từng chút một miếng sắt, nhai làm sao cho nát bấy mà không
tiếc thời gian công sức. Khi ấy tinh hoa mới được chắt lọc, thành quả mới hiện
tồn! Sự tu dưỡng và tôi luyện ấy không chỉ trong hành động mà phải bắt đầu bằng
tư duy. Muốn làm một việc hệ trọng phải nhìn trước ngó sau, suy nghĩ kỹ càng.
Nếu nông nỗi hời hợt, cực đoan quá khích làm theo ý mình ắt sẽ dẫn đến hậu quả
không ai lường được! Đó là thái độ của một thiện trí thức, một người có văn hóa
giáo dục và được trui rèn thử thách trong nhiều môi trường khốc liệt. Mặc cho
người mê ta tỉnh, mặc cho người ngủ ta thức. Tự ý thức trách nhiệm và tự phân
công thử thách. Bởi ông là Ông Glơng Anak!
- Ý thức công dân:
Jhak dahluwsiam hadei nan mưng thraung
Mưnhum tathik tabơng saung kraung o thei mai ngak di drei
Jhak dahluw
Mưnhum tathik tabơng saung kraung o thei mai ngak di drei
Adat kayuw phun hapak jruh tak nan
Okan
jruh pak bikan drei tacei wơk ka drei
O
Dwix xak ke pơp di thei
Đom saung gơp blauh kakei mưng thuw khing đwơc dwah pajơng…
Đom saung gơp blauh kakei mưng thuw khing đwơc dwah pajơng…
(dịch thơ)
Dữ trước, lành sau mới được trường tồn
Uống nước biển với xây ngăn nước sông thì không ai có thể hại
Đạo của cây thì thân ở đâu thì rụng lá nơi ấy
Ví có bay rụng nơi khác chăng, đấy là mình tự hại mình
Tội lỗi vướng vào thì tìm ai mà gặp?
Có nhắn bảo ai trước, mới biết đường chạy đi náu thân…
Uống nước biển với xây ngăn nước sông thì không ai có thể hại
Đạo của cây thì thân ở đâu thì rụng lá nơi ấy
Ví có bay rụng nơi khác chăng, đấy là mình tự hại mình
Tội lỗi vướng vào thì tìm ai mà gặp?
Có nhắn bảo ai trước, mới biết đường chạy đi náu thân…
Quốc gia nào cũng cần những bàn tay đen
và lương tâm trắng! Ai cũng mong ước cho bản thân mình và người thân một cuộc
sống yên bình tốt đẹp nhưng cái gì cũng có giá của nó. Một cuộc sống no đủ tiện
nghi phải được đánh đổi bằng công sức thực lực của mình chứ không thể bằng luồn
cúi nịnh bợ với những thủ đoạn đê tiện thấp hèn thậm chí làm tổn thương hoặc
xâm hại người khác. Trong họa có mầm phúc và trong phúc có mầm họa và thành
công đi lên từ cùng khổ mới mong lâu dài nhàn nhã. Có uống nước mặn biển cả mới
so sánh được vị ngọt của dòng sông thì không ai có thể dụ dỗ mua chuộc ta được.
Quy luật của đời người đời cây gốc rễ ở đâu thì rụng nơi đó. Nếu vì quyền lợi
nhất thời mà rụng nơi khác thì tội lỗi ấy ta phải gánh chịu, không thể biện
minh ở hoàn cảnh mà ngay trong chính tâm mình. Những đọa đày nghiệp chướng
không chừa một ai cả và biến tướng muôn hình vạn trạng. Nếu tâm ta không vững,
miếng mồi danh lợi sẽ đưa ta vào tội lỗi đi ngược lại sinh hóa cộng đồng thì
muôn đời ô nhục. Hãy thì thầm dặn dò nhau ghi nhớ để biết nơi đâu là bến đỗ
trạm dừng, người nào ta có thể nương nhờ ủi an lúc hoạn nạn! Để thể hiện tư
cách công dân trong thời bình đã khó huống hồ trong thời chiến lại càng ngàn
lần khó hơn. Nếu ai cũng vì quyền lợi riêng tư mà bỏ rơi quyền lợi tập thể thì
tất yếu xã hội ấy sẽ ngày càng tha hóa dẫn đến hỗn loạn. Tư cách công dân của
một trí thức lại càng quan trọng và mang tính quyết định. Phải đi đầu và đương
đầu với mọi gian nan thử thách. Bàng quan hoặc tiêu cực làm ngơ cũng là một tội
lỗi! Ông Glơng Anak đã nhiều lần nhắc nhở và nhắn nhủ như thế. Biết có ai để
tâm?!
- Phương châm sống:
Twơk tabiak piơh tơl ray hadei
Tabơm pala jiơng rei bithuw hadơr ra taha
Tabơm pala jiơng rei bithuw hadơr ra taha
Yah pơp ra mưtwei saung ra gila
Jwai limuk jwai ba gơp gan gơk katơk
Jwai limuk jwai ba gơp gan gơk katơk
Lihik phwơl dhar ra plơk likuk dalơm xakkarai…
(dịch thơ)
Viết ra cho hậu thế tỏ tường
Hạt giống người ương trồng để nhớ đức ông cha
Có gặp người côi quả hay kẻ dại khờ
Chớ ghét bỏ, hững hờ, cũng đừng ngang ngược bức hại
Có khác chi thân mình mà mình tự hoại
Thất đức thế nên người mới ngoảnh mặt, chẳng ghi công…
Hạt giống người ương trồng để nhớ đức ông cha
Có gặp người côi quả hay kẻ dại khờ
Chớ ghét bỏ, hững hờ, cũng đừng ngang ngược bức hại
Có khác chi thân mình mà mình tự hoại
Thất đức thế nên người mới ngoảnh mặt, chẳng ghi công…
Cuộc đời này không là bao nhiêu, chúng
ta đầu thai trên cõi đời này như là một nghĩa vụ đi làm người, phải sống ra sao
cho xứng đáng?! Ai có khả năng bao nhiêu thì cứ thể hiện hết mình để lại thành
quả cho đời sau kế tục. Những hạt giống ta gieo vãi hôm nay đều thừa hưởng từ
bao thế hệ cha ông không thể khinh suất tùy tiện. Cho dù mình quyền cao chức
trọng, khi gặp kẻ nghèo hèn cô quả cũng đừng khinh khi chèn ép. Nếu không giúp
được người thì cũng đừng ghét bỏ người. Làm như thế có khác gì mình tự cô lập
mình, tự đào thải mình khỏi cộng đồng xã hội. Quan trọng hơn đó là thất nhân
tâm phi đạo đức dẫn đến hậu quả mọi người đều xa lánh, đến khi sa cơ thất thế
còn mong ai cứu giúp xót thương. Điều ấy đã nói nhiều trong cổ thư và nhãn tiền
trong cuộc sống hiện tại. Hạnh phúc là sự thanh thản trường cửu nơi tâm hồn chứ
không phải sự thỏa mãn nhất thời nơi vật chất. Rất tiếc một khi thời thế đảo
điên, con người yếu đuối dễ sa ngã, bán mình cho vật chất cũng có nghĩa là bán
linh hồn!
Một con người thể hiện thái độ trí thức
với tinh thần đầy trách nhiệm, một tư cách công dân mẫu mực luôn ý thức được
vai trò và sự hiện diện của mình giữa mọi người chung quanh để luôn trăn trở
kiếm tìm giải pháp tối ưu phù hợp cho sự tồn tại của giống nòi. Ấy chỉ có thể
là ông Glơng Anak! Chắc rằng ông phải có một tư thế nhất định nào đó, một người
trong hoàng tộc Chăm và có một chức vị quan trọng ở triều đình.nên mới có điều
kiện đi suốt chiều dài đất nước và nắm rất rõ diễn biến tình hình xã hội. Một
con ngưòi tài cao đức trọng ưu thời mẫn thế có cái nhìn tiên tri thấu thị nhưng
rồi ông đã bất lực khi những nỗ lực cuối cùng của ông không thể cứu vãn được
tình thế để rồi một ngày ông ra đi và rồi viết ariya gửi lại. Đi là ở lại như
thế!
c. Glơng Anak ông ở đâu?
Trước tình hình chính trị xã hội vô
cùng rối ren hỗn loạn, mạng sống của từng cá nhân luôn bị đe dọa không biết
phải nương nhờ cầu cứu vào ai trong khi chính quyền bù nhìn Chăm chỉ là tay
sai, còn các phe phái đương đầu với nhau bằng vũ lực. Theo Tây Sơn hoặc Nguyễn
Ánh cũng không là con đường sống! Bboh mưbai saung janưk dom di on/ Dhar phwơl calah calwơn ra mưk di drei nau dahluw.
Phe nào cũng hứa hẹn mang lại quyền lợi cho dân Chăm nếu theo họ để rồi nơi hai
đầu chiến tuyến người Chăm chém giết nhau đến nỗi: Grum
mưnhi riyak tathrok kayuw mưgei/ Xa-ai o krưn ka adei mik o krưn lac kamwơn!
Và giải pháp cuối cùng là chạy và chạy, bỏ quê hương mà chạy. Nhưng chạy đi đâu
khi: Di grơp tapien ra pawang pabbuk pajaih nan ka drei (giọng chua
chát) hay Di grơp tapien ra pawang halei nưgar drei khing nau?! Cho
nên ông chỉ thất thần ước mơ cho dù hão huyền: Dơng
di Pur khing bbơng parabat o ka ra mai/ Nưh gơp blauh pabrai mưnhum tathik
khing ka thu! Ông đang đứng ở phía đông đất nước, trước mặt là rừng
núi chập chùng, phía sau là biển khơi muôn trùng sóng vỗ. Giá mà ông có thể ăn
và nuốt dãy núi cũng như uống cạn nước đại dương để dọn đường cho dân Chăm chạy
loạn thoát thân thì đó là khát vọng cuối cùng ông cần làm để ông yên tâm nhắm
mắt nhưng đó cũng chỉ là ước mơ! Đâu đâu cũng là cạm bẫy và bạo lực. Đàn ông
Chăm xung phong hoặc bị cưỡng chế ra trận, người già phụ nữ trẻ con dắt díu
nhau chạy loạn băng rừng vượt núi tìm miền đất hứa. Gram
nưrah laik karơm yuw khing đong/ Apwei ngah yuw khing bhong tani ra lac yuw
tani. Đến đâu hay đến đó, cứ chạy và hy vọng. Lẽ nào ngồi chờ chết!
Lúc đó ông Glơng Anak ở đâu? Ông cũng
chạy và chạy thoát bằng đường biển, ông đã vượt biên thành công nhưng rồi ông
có tị nạn? Ông đang ngồi trên một hòn đảo hoang để định thần và suy tư: Dauk
sa drei sa nưgar di krưh hanrai/ Di krưh tathik cwah jai halei nưgar drei
xathuw? Ngồi một mình một cõi giữa bao la bãi cát đìu hiu, giữa
trùng khơi sóng vỗ giạt bờ, nơi nao là bến đỗ trạm dừng cho bước đường tương
lai mịt mù vô định và nơi nao là lẽ sống trong tâm hồn?! Để rồi ông gào vào hư
vô: Ew padaung di krưh mưlơm angan harei/ Bbwah kar lo ka thei tathrưk
mưhu lo mưng kal. Ông đã kêu cứu dù giữa trưa nắng hay giữa đêm
lạnh, cầu cứu cả mặt trời lẫn mặt trăng, kêu cứu tiền nhân ở quá khứ lẫn con
cháu chưa chào dời. Ông muốn cứu giúp mọi người nhưng lúc này ông không thể cứu
được ngay chính bản thân mình nên đành kêu cứu với trời đất! Cuộc sống có ý
nghĩa gì khi ta không còn gắn kết với cộng đồng, với quê hương xứ sở. Và lúc
này ông nhận ra dù ông có đi đâu cũng vô ích khi sự ra đi không mang lại điều
gì tốt đẹp cho đồng loại. Đó chỉ là sự ích kỷ nhất thời mà ông nhầm lẫn dù chỉ
một lần trong đời cũng đủ hủy hoại một kiếp người. May mắn! Đó là lúc ông gượng
hết tàn lực viết Ariya Glơng Anak gửi
lại hậu thế. Thế nhưng: Dauk tabur khan aw pataih liuw/ Ba alin thei o thuw ra pabbuk piơh
tanan. Ông viết và gửi lại là một chuyện, chuyện của riêng ông. Còn
hậu thế có đọc và tiếp thu được hay không là chuyện khác, chuyện của loài
người!
Hành trình của ông trải dài từ Panrang
Kraung Parik Pajai và có lẽ ông đã vượt biển tại Lơmngư Pajai (cảng Mũi Né).
Đây là cảng biển giao thương duy nhất còn lại từ khi Champa suy vong và lụi
tàn. Trong Ariya Bini Cam, phái đoàn ngoại giao Mã Lai cũng đã
từng cập bến tại đây: Nai nau tơl Pajai/ Mưng Lơmngư Pajai Nai jauh akauk xơng (Nàng
đi tới Ma lâm/ Từ cảng Ma Lâm nàng trở gót ngay). Theo dấu chân ông trên bản đồ
thì hòn đảo ông đang ngồi để viết có thể là đảo Phú Quý ngày nay. Đó chỉ là suy
đoán bởi không có tư liệu nào nhắc đến. Ông viết xong rồi ông đi đâu, ông lại
trở về hay đã chết trên đảo thì không ai có thể biết được. Chỉ biết rằng thông
điệp ông gửi lại đã đến đất liền và được trân trọng trong lòng người Chăm thì
ông Glơng Anak ơi, ông có thể yên tâm nhắm mắt!
3. Thông điệp Glơng Anak:
Ông Glơng Anak muốn nói, muốn kể lại
chuyện gì và để làm gì dường như trong mổi người Chăm tiếp nhận mỗi khác. Đó là
cái hay đầu tiên của Glơng Anak! Cho dù bạn thuộc đối tượng nào cũng có thể đọc
Glơng Anak nếu bạn yêu và muốn hiểu văn chương Chăm.Tùy trình độ cảm thụ, cái
tâm và cái tình, bạn sẽ đi vào và chìm đắm trong lòng ariya với thế giới riêng
mình. Không sao cả, vạn sự vô ngại! Có lẽ thông điệp chúng ta tiếp nhận được
đầu tiên là tinh thần vô danh của người nghệ sĩ bởi vì ông là hiện thân công dân
của cả một dân tộc chứ không phải của một cá nhân đơn lẻ. Một thái độ trí thức
dứt khoát và một ý thức công dân mãnh liệt với một phương châm sống rõ rệt
trong tù mù sáng tối nỗi đời và cuộc người. Ông đã khái quát được một giai đoạn
lịch sử bi thương và phi thường mà con dân Chăm phải gánh chịu đau xót. Quy
luật cuộc đời luôn nghiệt ngã và sòng phẳng. Mạnh được yếu thua cũng là lẽ
thường tình trong chế độ cát cứ phong kiến ngày xưa mà ngày nay là một bài học
đắt giá cho thế hệ mai sau rút tỉa và học tập. Một tính nhân bản sâu sắc được
mổ xẻ dưới lăng kính nhân văn muôn màu muôn vẻ sẽ dẫn dắt và đưa ru chúng ta về
cội nguồn nhân tính. Mỗi người sẽ nhận được một thông điệp riêng tùy theo gu và
não trạng, theo hướng khám phá và khai thác phù hợp với hành trang mang theo
sống đời. Theo tôi, có ba thông điệp thú vị, giản dị cần được suy ngẫm:
a. Trí tuệ và sáng tạo.
Mỗi dân tộc có một cách tư duy và biểu
đạt rất riêng. Nhiều cái riêng sẽ đúc kết thành một cái chung để hình thành nên
văn hóa và bản sắc. Ở Glơng Anak cái riêng ấy được thể hiện độc đáo không thể
lẫn với nhiều ariya khác. Có thể nói với người Chăm, sáng tạo luôn song hành
với trí tuệ. Một tác phẩm hay luôn hàm chứa và tiềm ẩn chất trí tuệ trong từng
chữ từng câu ngay cả ý tại ngôn ngoại cùng tính triết luận bàng bạc nhưng liên
kết chặt chẽ từng đoạn, từng ý trong và ngoài văn bản:
Ngak bal di Mưlithit đa ka ra laung
Hajiơng yuw nan ka tarakaung praung di po debita
Hajiơng yuw nan ka tarakaung praung di po debita
Hajiơng ra ngak nưm di ngauk tara
Pak kieng takai kara di krưh thaik bauh lingal
Pak kieng takai kara di krưh thaik bauh lingal
Mưng hu piơh ka lok ni đaum kanal
Apakar rim sibơr grơp mưnưksiam
mưtwaw.
Apakar rim sibơr grơp mưnưk
(dịch thơ)
Dựng thủ đô ở Phan Thiết thì e người công
Nên mới cho cổ họng mình (còn hay mất) là ở đấng chí tôn
Nên người mới làm dấu giữa khoảng không
Bốn phương: ngay dưới chân sao Rua và giữa sao Cày
Cho thơ được tạc vào dạ người đời sau
Dù sự biến cố thế nào, mọi vật vẫn thịnh hưng.
Nên mới cho cổ họng mình (còn hay mất) là ở đấng chí tôn
Nên người mới làm dấu giữa khoảng không
Bốn phương: ngay dưới chân sao Rua và giữa sao Cày
Cho thơ được tạc vào dạ người đời sau
Dù sự biến cố thế nào, mọi vật vẫn thịnh hưng.
Muốn dựng thủ đô ở Phan Thiết e người
lại thử thách phá tan. Thành thử cho nên cái vòng luân hồi ấy phải do Tạo hóa
định đoạt an bài. Thôi thì ta cứ khởi công tạo dựng ở trên không gian. Ở nơi
bốn góc chân rùa giữa trục sao cày. Có như thế mới để lại thành quả cho trần
đời ghi nhớ. Căn nguyên có diễn ra thế nào vạn vật vẫn thịnh hưng! Đó là một
phong cách sáng tạo siêu nghệ sĩ, vừa trừu tượng mơ hồ nhưng lại rất thực tế cụ
thể. Cho dù thực tại không cho phép, không đủ sức để xây dựng một kinh đô tráng
lệ nơi trần gian này. Nhưng một nghệ sĩ chân chính có quyền mơ mộng ươm vun một
thủ đô cho riêng mình trên những vì sao hay trong tâm hồn mình. Và có thể yên
tâm sống và vui chơi trong thế giới ấy bởi đó là trò chơi của số phận!
Tarakaung nguyên nghĩa là vòng không khí, nghĩa hẹp là cuống họng chỉ sinh mạng
của một con người; nghĩa rộng là số phận của toàn nhân loại. Con rùa là biểu
tượng của nền tảng nguyên thuỷ, sao cày xuất hiện để báo hiệu mùa màng gieo
cấy. Hãy làm lại từ đầu trong niềm tin và hy vọng vì quy luật cuộc đời thịnh
suy hưng vong khôn lường, trong phúc có họa trong họa có phúc!
b. Nội lực và thực tiễn.
Thế chúng ta bắt đầu từ đâu? Người nào
muốn dựng thủ đô cứ dựng mà nương náu, còn những ai không có khả năng ấy thì cứ
dựng chòi nơi trái đất này. Số phận chúng ta đã từng sinh ra và lớn lên trên
ruộng rẫy thì cứ nỗ lực cày cuốc để bới móc miếng ăn mùa nào thức ấy. Không thể
trông cậy vào ai khác mà phải dựa vào nội lực của chính mình. Đầu óc có thể mơ
những giấc mộng đẹp để tự an ủi động viên mình, nhưng tay chân phải lao động cụ
thể để có miếng cơm manh áo:
Ngak rideh paga wal raung kubaw
Bilimưk khơng di nau pajiơng jađun saung hatơm
Bilimưk khơng di nau pajiơng jađun saung hatơm
Pabơk binơk pakwơc ribaung bidalơm
Gan agha gan rơm sa prưn sa hatai
Gan agha gan rơm sa prưn sa hatai
Hadơng hajan ia xwa laik mưrai
Liwa hamu drak patai liwa tanưh pala tangơy
Liwa hamu drak patai liwa tanưh pala tangơy
Blauh pala nhjơm paya traung plwai
Mưyah ơk cang thrwai bbơng plwai saung hadak.
Mưyah ơk cang thrwai bbơng plwai saung hadak.
(dịch thơ)
Đóng xe, dựng chuồng, nuôi trâu
Cho béo mập, to cao, chở cọc, chuyên rào
Đắp đập khai mương cho thật sâu
Băng rừng rậm, đồi cao, chung lòng chung sức
Đợi khi mưa nguồn kịp xuống
Cày ruộng trồng lúa, cày rẫy trồng ngô
Rồi trồng bí đỏ, khổ qua
ăn qua vụ đông, đợi mùa lúa chín.
Cho béo mập, to cao, chở cọc, chuyên rào
Đắp đập khai mương cho thật sâu
Băng rừng rậm, đồi cao, chung lòng chung sức
Đợi khi mưa nguồn kịp xuống
Cày ruộng trồng lúa, cày rẫy trồng ngô
Rồi trồng bí đỏ, khổ qua
ăn qua vụ đông, đợi mùa lúa chín.
Chúng ta bắt đầu bằng sức kéo tức là
bằng phương tiện. Đóng xe dựng chuồng nuôi trâu.Có béo khỏe mới đủ sức chuyên
chở vật liệu cọc rào đắp đập khai mương. Cho dẫu băng rừng vấp rễ cũng một dạ
một lòng vượt khó. Chuẩn bị sẵn sàng cho cơn mưa đầu mùa rơi xuống liền cày
ruộng gieo lúa cày rẫy trồng ngô cho kịp thời vụ. Sau đó trồng khổ qua cà bí
rau củ… Có đói cũng không hề gì bởi đã tích lũy thức ăn chờ giáp vụ. Muốn sống
tốt phải có những điều kiện tối thiểu được tạo lập bằng chính nội lực của mình
nếu không muốn lệ thuộc vào người khác với những hệ quả phải trả giá. Nội lực ở
đây bao hàm kỹ năng sống, chất lượng sống và quan trọng hơn là giá trị sống.
Nội lực ở đây được biểu thị bằng sức mạnh cơ bắp trong lao động và sự đoàn kết
của một tập thể không còn tiềm lực. Một ý chí quyết tâm trước những thử thách
và ý thức chuẩn bị tích luỹ phòng thân trong những tình huống bất lợi có thể
xảy ra bất cứ lúc nào. Sau cùng là sự trang bị tri thức có được từ những thành
quả ban đầu và được vun bồi theo thời gian và không gian, từ ước mơ đến hiện
thực!
c. Yêu phận và nhận mệnh.
Một khi không thể làm gì khác hơn thì
phải biết chấp nhận số phận của mình và yêu quý những gì mình đang cưu mang.
Nói như thế không có nghĩa là ta đầu hàng số phận mà là tỉnh táo nhìn nhận vấn
đề và dũng cảm đương đầu trực diện với nó. Mỗi người có một phương cách ứng xử
riêng nhưng ở đây tác giả muốn hướng chúng ta có một cái nhìn cao hơn, một cái
nhìn toàn cảnh và toàn cục mang đậm nhân sinh quan Chăm mà có lẽ ngày nay nhiều
người không còn trong bản năng gốc:
Mưbai janưk lo di tian mưk klak
Tian drei jwai jhak biak ligaih bboh xaglơng
Tian drei jwai jhak biak ligaih bboh xaglơng
Janưk hanim thei ngak piơh tabơng
Dađơp jhak ra glơng mưta bboh di mưta.
Dađơp jhak ra glơng mưta bboh di mưta.
(dịch thơ)
Dứt tuyệt căm thù tận nơi sâu kín
Tâm ta không ti tiện, cái nhìn sẽ thoáng thông
Dữ - lành được tạo tác ra là để thử lòng
Cái nham hiểm sẽ hiện tiền, mở phơi cho người trần chứng kiến.
Tâm ta không ti tiện, cái nhìn sẽ thoáng thông
Dữ - lành được tạo tác ra là để thử lòng
Cái nham hiểm sẽ hiện tiền, mở phơi cho người trần chứng kiến.
Thù hận trong sâu kín cõi lòng nên vứt
bỏ. Tâm mình trong sáng thánh thiện trí mình mới thấu suốt được vấn đề. Hận thù
người đời gây ra để gạn lọc xấu tốt. Gian trá dù có che phủ như thế nào thì
người đời cũng thấy tận tường. Một tâm hồn khoan dung và độ lượng, luôn lấy đạo
lý làm đầu trong nhận thức và đối nhân xử thế. Dĩ nhiên ông Glơng Anak biết rõ
sự đau khổ và tủi nhục của người Chăm trong thảm kịch lịch sử mà ngay chính bản
thân ông cũng đang bế tắc. Nhưng cuộc đời không cứ là dĩ oán báo oán, ác giả ác
báo được! Ông là một đại trí thức ưu thời mẫn thế, có cái nhìn tiên tri thấu
thị và nhất là tấm lòng nhân hậu của một bậc chân tu. Ông sẵn lòng chết cho
người khác sống và nhất là ông mong muốn dân Chăm được sống sót và tồn tại sau
khi ông không còn hiện diện trên cõi đời này. Ông đã để lại ariya này như một
lời trăng trối, một bản di chúc không phải chỉ riêng với người Chăm mà cho toàn
nhân loại! Thời đại nào cũng thế, trong cuộc đấu tranh sinh tồn luôn để lại
những mất mát đau thương mà nhân dân luôn là kẻ chiến bại phải chịu đựng từ đời
này sang đời khác. Những di chứng ấy âm thầm hành hạ trong cả thể xác lẫn tâm
hồn. Hãy cảm thông và chia sẻ cùng nhau những niềm đau không đáng có! Mỗi một
thời đều phải mất mát một cái gì đó, luôn như thế và mãi như thế. Hemingway đã
viết trong “Một thế hệ lạc loài” như thế! Hôm nay chúng ta giảm thiểu mất mát
cho ngày mai.
4. Một chút đời thường:
Đã nhiều lần ra đi rồi trở về với bàn
tay trắng, tôi đã từng hướng tầm mắt về ngút ngàn xa phía trước, thỉnh thoảng
ngoái lại dấu chân mờ trên bước đường trơ cát bụi chờ hóa thân. Chẳng thấy gì,
chẳng thấy ai… ngoài khoảng trống trải dài mênh mang vô tận. Có chăng vài khuôn
mặt anh em, bạn bè, người quen trong ánh mắt nhìn mệt mỏi tương cận những vất
vả nhiêu khê đời thường. Đành vậy! Những lúc như thế tôi thường buột miệng lẩm
nhẩm vài câu Glơng Anak để trấn tĩnh và định thần. Đó là những câu thần chú hộ
mệnh cho riêng tôi những lúc không thể bấu víu vào được gì. Nhất là vào những
đêm trăng thượng huyền vào đúng ngày mồng 10 hàng tháng, đặc biệt hơn vào ngày
mồng 10 tháng 2 Chăm lịch! Ngày mà người thi sĩ vô danh vĩ đại đã viết tuyệt
tác Ariya Glơng Anak lưu
danh hậu thế. Tại sao không lấy ngày tháng này làm ngày thơ Chăm để kỷ niệm
hàng năm nhỉ?
Nhiều lúc thối chí chán chường, tôi lại
nghĩ đến ông Glơng Anak và cảm giác nặng nề ấy dần tan biến. Tôi còn may mắn và
sung sướng hơn ông nhiều lắm! Những gì mà con cháu ông thể hiện hôm nay thật
chẳng xứng đáng với lời răn dạy chỉ bảo của ông nói chi kế thừa. Thế hệ trẻ hôm
nay ngày càng xa rời tư tưởng ông và người Chăm dần lãng quên một nhân cách
sống. Trong sự hòa nhập thích nghi mang tính thời đại toàn cầu hoá, phổ cập
những kiến thức tiên tiến là điều cần thiết trong xu thế phát triển và tiến bộ
nhưng nếu đánh mất tư tưởng chủ đạo thì coi như đánh mất nền tảng tinh thần và
lai căng bản sắc và là mầm mống của sự mất gốc vong thân. Đọc Thế giới phẳng hay
Chiếc Lexux và cây Ôliu để đâm chồi nở hoa kết trái nhưng trước nhất hay đồng
thời phải trang bị thâm sâu Glơng Anak hay Pauh Catwai để vun gốc mọc rễ tạo
cành thì thân cây ấy mới cổ thụ trường tồn. Adat kayuw phun hapak jruh tanan luôn là
quy luật muôn đời của nguồn sống, là chân lý của mọi thời đại. Đi là ở lại nếu
sự ra đi ấy không mang lại lợi ích cho cộng đồng thì thật vô nghĩa!
Tôi chỉ mới tiếp cận Ariya
Glơng Anak bằng văn
bản từ năm 1995 và bây giờ vẫn đọc như mới ngày nào tập đánh vần. Tôi không bao
giờ có ý định học thuộc lòng Glơng Anak mặc dù tác phẩm rất ngắn bởi vì với tôi
mỗi lần đọc đều như là mới lần đầu tiên. Từ đấy tôi mới khám phá chắt lọc từng
từ từng câu qua từng ngày từng tháng suy tư miệt mài để hôm nay cặm cụi viết
những dòng này. Và đây chỉ mới là khai mở gợi ý ban đầu cho một cuộc tiếp sức.
Cần phải có một khảo luận hoàn chỉnh về Ariya Glơng Anak cho
thế hệ mai sau nghiên cứu và học tập. Đó là trách nhiệm của toàn xã hội, của
các cơ quan ban ngành có thẩm quyền chức năng và ý thức của mỗi cá nhân tâm
huyết. Di sản vật thể đã được thế giới công nhận. Lẽ nào ariya Chăm cũng phải
nhờ Unesco nghiên cứu, hay một tổ chức phi chính phủ nào đó đảm trách? Càng
không thể giao cho bần cố nông Chăm ngày đêm đầu tắt mặt tối cày thuê cuốc mướn
dưới đáy cùng xã hội!
Để đọc và hiểu một ariya Chăm bạn cần
nắm đúng ý nghĩa phần nhập đề và kết luận. Có như thế bạn mới theo dõi được
diễn biến ở thân bài để có cái nhìn toàn cuộc. Một văn bản cũng là một liên văn
bản vì nếu bạn không nắm được ngữ pháp văn nói trong ca dao tục ngữ… thì rất
khó nắm bắt ngữ pháp văn viết trong ariya. Nếu mỗi bài đồng dao Chăm là một
tiểu công án thiền thì mỗi ariya triết luận Chăm là một đại công án thiền.
Nhiều khi đọc để tiệm ngộ hay hoát ngộ, một hình thức giải mã tâm linh một khi
ta không thể cảm và hiểu. Cho nên ngày xưa các ông già thường đọc ariya trong
những đêm thanh vắng như lời kinh tụng. Có thể coi Ariya Glơng Anak là một pho
kinh. Như Đạo đức kinh của Lão Tử, viết rất ngắn nhưng đọc mãi vẫn không tận
cùng và ý nghĩa của nó không bao giờ được quyết toán. Đôi khi tôi tự hỏi ông
Glơng Anak đã đọc gì trước đó để có thể viết một cách viết mà hậu thế hôm nay
phải cúi đầu bái phục như nhiều nhà khoa học từng đứng trước Tháp Chàm! Những
gì trước đó không còn nữa để lần tìm manh mối. Thật đáng tiếc!
Tôi có người ông Út, em ruột ông nội
rất mê Ariya Glơng Anak và Pauh Catwai. Lúc nào ông cũng lòa ra vài câu rồi tự
rung đùi đắc chí ngay cả những lúc ngồi một mình mải mê làm một công việc gì
đó, dường như để giải tỏa một bức xúc hay chỉ đơn thuần giải trí. Thời đó tôi
còn trai trẻ đang thất nghiệp và bây giờ cũng đang thất nghiệp! Hôm ấy ông đang
tập trung chạm khắc bộ khay trầu bằng bạc, còn tôi tò mò lớ ngớ đứng gần đấy
xem. Hồi ấy ariya Chăm tôi mù tịt, chỉ nghe loáng thoáng những câu chuyện thêu
dệt thần bí xung quanh ariya Chăm. Ông hào hứng đọc cho tôi nghe vài câu Glơng
Anak rồi phán: Phan Rang Phan Rí Phú Hài Lòng Sông đâu còn lối thoát, thôi thì
cứ nhai sắt cho hả dạ rồi nhổ ra một bụm máu tươi. Giải thích xong ông nhổ một
bãi nước bã trầu đỏ lòm xuống đất rồi vỗ đùi cái đét cuời ha hả khoái chí làm
tôi cũng vui lây. Nhưng nghĩ một lúc tôi thấy không ổn nên phân trần, nghĩ như
ông cũng hay nhưng ý ông Glơng Anak không như thế và tôi nói cách hiểu của
mình. Lúc đầu ông nộ khí xung thiên hét: A thằng này láo thiệt, dám cãi lời
ông! Nhưng suy nghĩ một hồi lâu, ông gục gật đầu bảo: Ừ cái thằng này hay, suy
nghĩ như thế mới tiến bộ. Ông già rồi nên chắc lẩm cẩm! Dường như chưa hết ấm
ức, ông bồi tiếp một câu Pauh Catwai: Jhauk ia di bai dơng kiah/ Rataung nau tapah di ngauk haluw.
Lần này có vẻ tự tin hơn, ông giải thích: Câu này mới cao siêu, bọn trẻ không
đủ sức hiểu. Múc nước vào rọ rồi đứng gạt cho ngang bằng. Chỉ có cá lòng tong
nhỏ bé mới thoát được theo kẻ hở, mấy con cá lóc cá trê cá rô lớn con to xác
đều bị tóm gọn. Ta học làm cá lòng tong mới sống yên sống khỏe rồi lại cười ha
hả khoái hoạt nhìn tôi thách thức. Lại không ổn, lúc đầu tôi định làm thinh cho
ông vui nhưng không hiểu sao tôi lại mạnh miệng lý giải: Ta phải lưu ý chữ Di,
tiếng Chăm có nghĩa là ở, tại, từ… Múc nước từ trong rọ rồi đứng gạt cho phẳng.
Nước trong rọ ở đây theo nghĩa bóng là đất nước bị nô lệ như chim lồng cá chậu,
thuộc tính của nước là một mặt phẳng, thế nhưng cẩn trọng hơn ta phải phả lại
một lần nữa cho chắc chắn. Còn thân phận chúng ta nhỏ bé yếu đuối như con cá
lòng tong phải bơi ngược nguồn đi tìm chân lý. Đúng là một nhiệm vụ bất khả
thi, còn lóc trê rô được ăn mồi no nên đang ngủ gật! Lần này ông tôi không nói
gì nữa. Ông buồn thiu và tôi cảm thấy mình có lỗi…
Ông Glơng Anak đã là người thiên cổ,
ông tôi cũng đã ra đi. Một nén hương cho tiền nhân, một nén hương cho tôi, cho
những ai đi về cõi tạm này không còn hối tiếc.
_______________
(1) Tham khảo nguyên tác và bản dịch
của Inrasara trong Ariya Glơng Anak: Văn học Chăm – Trường ca, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí
Minh, 2006, tr. 227-373.
(2) Xem Inrasara, “Văn học Chăm, mấy vấn đề sưu tầm – nghiên cứu”, Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại, in lần 3, NXB Văn học, H., 2008, tr. 122-134.
(3) Xem thêm: Inrasara, Văn học Chăm – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994, chương “Thơ thế sự”, tr. 205-216.
(2) Xem Inrasara, “Văn học Chăm, mấy vấn đề sưu tầm – nghiên cứu”, Văn hóa – xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại, in lần 3, NXB Văn học, H., 2008, tr. 122-134.
(3) Xem thêm: Inrasara, Văn học Chăm – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, H., 1994, chương “Thơ thế sự”, tr. 205-216.
_____________
Nguồn: Tagalau
10
Xem thêm: Inrasara.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com