Shmuel Yosef Agnon |
Shmuel Yosef Agnon (hoặc Chmuel-Yosif Agnon)
sinh ngày 17 tháng 7 năm 1888 ở Buczacz, một ngôi làng nhỏ miền đông Galicia,
về sau là tây Ukraine, từng thuộc Liên bang Xô-viết, trong một gia đình gồm
nhiều học giả Do-thái. Thuở nhỏ ông sống trong một bầu khí sùng đạo, được hấp
thụ nền văn hoá cổ truyền Do-thái do chính thân phụ truyền dạy. Khởi sự văn
nghiệp rất sớm trên các báo tiếng Hy-bá [Hebrew] và tiếng Yiddish ở địa phương,
năm 1907 ông về sống tại Jaffa, Israel [bấy giờ gọi là Palestine], chỉ sáng tác
bằng tiếng Hy-bá của nền văn chương Hy-bá cổ truyền, và cho xuất bản truyện đầu
tay “Agunot” [“Những kẻ bị ruồng bỏ”], rồi truyện vừa Vehaya He’Akov
Lemishor [Và những nơi cong queo sẽ được uốn ngay lại] từng làm
say mê độc giả Do-thái đương thời. Từ năm 1913 đến 1924, vì chiến tranh, ông
kẹt lại ở Đức, tiếp xúc với văn chương châu Âu, viết truyện ngắn và một tiểu
thuyết tự sự và sửa chữa những tác phẩm cũ của mình. Năm 1924, nhà ông ở
Hamburg bị cháy, bản thảo và tủ sách Hy-bá của ông biến thành tro. Ông trở về
Jerusalem [1924], Palestine [1929], rồi trở lại Galicia. Sau đó ông sống ở Đức
gần một năm và tại đây ông cho ấn hành 4 cuốn đầu những tác phẩm đã sửa chữa.
Ngoài công việc sáng tác, Agnon còn biên soạn các tuyển tập văn chương bằng
tiếng Đức cũng như bằng tiếng Hy-bá. Năm 1934, ông được tặng Giải thưởng Bialik
nhờ cuốn Hakhnasat Kalla [Của hồi môn của nàng dâu,
1931] và Giải thưởng Ussischkin nhờ cuốn Tmol Shilshom [Cách
đây không lâu, 1946]. Năm 1954, Agnon được bầu vào Hàn Lâm Viện Hy-bá, toàn
bộ tác phẩm của ông được coi như một công trình nối kết các thế hệ tiền phong
trong phong trào phục quốc Do-thái và thế hệ đang lên ở Israel. Giải Nobel văn
chương được Hàn Lâm Viện Thụy-điển trao cho ông năm 1966 cùng với nữ thi sĩ
Nelly Sachs [Đức Do-thái, quốc tịch Thụy điển] đã làm thế giới biết ông nhiều
hơn, không phải chỉ như một nhà văn nhân bản của Do-thái, mà còn như một nhà
văn đã “thể hiện [...] trong thế giới Do-thái [...] tính nhân loại
chung của chúng ta...” – nghĩa là nhà văn của mọi người.
Agnon mất năm 1970 tại Revohot, Jerusalem,
đến nay vẫn được coi là người trước tiên và hiếm hoi đã biến ngôn ngữ Hy-bá
thành một thứ nghệ thuật có một không hai: toàn bộ tác phẩm ông để lại mãi mãi
là một nguồn cảm hứng bất tận cho những người Do-thái khắp nơi trên thế giới.
Và chúng ta không lấy làm lạ khi nghe nói gần ngôi nhà xưa kia của ông, Nhà
nước Do-thái có hãnh diện cho dựng một tấm bảng ghi: IM LẶNG: AGNON ĐANG
VIẾT.
Truyện ngắn “Tấm bạt” lẽ ra đã được in chung
trong cuốn Trăng trên thung lũng Jerusalem [Nhà xuất bản Trình
bầy, Saigon, 1969] nếu phút chót không bị “trục trặc kỹ thuật” ở khâu kiểm
duyệt. Câu chuyện kể có vẻ như không xa lạ đối với người đọc Việt Nam ở mọi
thời kỳ, mọi nơi. “Tấm bạt” xuất hiện trên một tờ báo tuần không chuyên về văn
học gần nửa thế kỷ trước đây ở Saigon – với mơ ước một kết thúc tốt đẹp lấp ló
sau câu chuyện – nay tuy giọng điệu nghe sỗ sàng và buồn cười, hẳn vẫn còn có
thể gửi cho chúng ta một lời nhắn nhủ nào đó, và buộc chúng ta có, phải có,
những suy nghĩ... “Cái chính yếu không phải là Hành Động, mà là Tư
Tưởng hướng dẫn nó”, như Agnon đã phát biểu, chẳng hạn, chẳng phải là một
điều đáng suy nghĩ?
TẤM BẠT
Thuở xưa, có một quốc gia đột nhiên gặp phải
một tai hoạ lớn. Từ khi được tạo lập ra đến nay chưa bao giờ quốc gia ấy phải
đương đầu với một cảnh ngộ thảm khốc đến như vậy: trời không có mây và đất đai
khô cằn không còn sanh sản cây trái gì được nữa. Người ta có thể bảo là Trời và
Đất đã thề bỏ cho tàn lụi những kẻ sống sót cuối cùng của cái dân tộc vừa thoát
nạn ấy. Thực phẩm dần dần biến đâu mất trên thị trường, nạn đói làm cho mặt nào
mặt ấy hốc hác ra. Hạt lúa mạch đã trở nên quí báu hơn cả tiền bạc, lúa mì bán
đắt như vàng: sữa thì trong hơn nước lã và nước lã thì không tìm đâu ra được.
Bởi vì Chúa đã đem lại hạn hán...
Ngày tháng trôi qua. Mặt trời, chạy lăn trên
trời như một cục lửa tròn, dường như đùa với đất. Đêm này qua hết đêm kia và
mặt trăng khô héo dường như lại còn teo tóp lại nhiều hơn nữa. Trên mặt đất,
bọn đầu cơ ngự trị cũng hùng mạnh như đạo binh những vì tinh tú trên trời và
bụng họ phệ ra làm gợi lại những chiếc bụng phình trương khi chết. Thế nhưng
những kẻ mạnh lại yếu dần, những kẻ yếu thì ngã bệnh, và những kẻ bệnh thì mỏi
mòn rồi chết.
Tai hoạ không khi nào lại đến một mình. Khi
người ta biết được là kẻ thù đang vây hãm và sắp xâm chiếm xứ sở, không còn ai
có sức lực để chống lại được nữa. Những liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt
và không một thức ăn nào từ ngoài nước đưa vào được cả. Vả lại, từ hồi nào đến
giờ, và cả đến những năm sung túc, Chính Phủ cũng phải nhập cảng lúa mì và
thịt. Giờ đây túng bấn, Chính Phủ không còn may mắn nào nữa để nuôi sống dân
chúng: và dân chúng thì lại quá đói không thể nào cầm khí giới và ra trận chống
kẻ thù được. Không còn ai đứng thẳng người nổi, trừ những bọn đầu cơ đang khoe
khoang biểu diễn: vì bọn chúng biết cách chứng tỏ là mình cần thiết cho Quốc
Gia và hy sinh cho lợi ích chung, chúng được kiểm soát việc phân phối các đồ
tiếp tế. Đất Nước bắt buộc phải chịu đựng chúng hoặc chịu chết đói.
Kẻ thù, thấy không có ai đủ sức đương đầu với
mình, càng ngày càng tỏ ra hung hăng: giăc giã đe doạ ngoài biên giới, nạn đói
hoành hành trong nước, tình thế không lúc nào có thể bi đát hơn được nữa. Thế
mà một vết thương mới lại giáng xuống Đất Nước, còn kinh khủng hơn các vết
thương trước, bởi vì Đấng đã đem lại những thiên tai kia không biết đo lường,
Ngài để dành lại, và dành cho đến vô cùng tận, những tai hoạ lúc nào cũng lớn
hơn.
Bây giờ ta hãy trở ngược về trước một lúc.
Hồi đó Đất Nước lọt vào tay của hai đảng, đảng “Đầu trần” và đảng “Đội nón”.
Tất cả những gì đảng này đề xướng, thì đảng kia gạt bỏ. Hơn nữa, chính các đảng
đó lại chia thành từng nhóm ghét nhau còn hơn cả kẻ thù ngoại bang thù ghét hai
đảng “Đầu trần” và “Đội nón” hợp lại nữa.
Làm sao có thể có chuyện một Quốc Gia duy
nhứt lại chứa chấp được ngay trong lòng đất của mình hai quốc gia thù nghịch?
Thế mà vẫn có. Và nguyên nhân rất giản dị: mỗi người trong dân tộc đó diễn giải
lịch sử một cách khác nhau và chịu ảnh hưởng của Quá Khứ một cách khác nhau (dù
đã từ lâu, bộ mặt của thế giới đã thay đổi, các tập quán đã biến chuyển, và con
cái đã bỏ đi những truyền thống thân yêu của tổ tiên).
Mọi người đều công nhận rằng dân trong Xứ đều
thuộc dòng dõi những người Do-thái. Nhưng có kẻ cho rằng mình có liên hệ với
dân Do-thái thời trước Luật của Moïse vốn là những người Do-thái chưa bị buộc
phải che đầu: bởi vậy họ nhập vào đảng “Đầu trần”. Những kẻ khác thì cho rằng
mình thuộc dòng dõi dân Do-thái sau Luật của Moïse: truyền thống bắt họ phải
che đầu và họ đã gia nhập đảng “Đội nón”.
Bây giờ người ta mới hiểu được mối thù hận
sâu xa làm bọn “Đầu trần” và bọn “Đội nón” chống đối nhau. Nhưng tại sao ngay
bên trong mỗi đảng lại còn có nhiều phe khác nhau? Bởi vì các đảng viên “Đội
nón” không phải hết thảy đều có đội nón hay sao? Hẳn nhiên là họ đều có đội
nón! Nhưng mũ nón cũng có nhiều thứ! Nào mũ nồi mũ lưỡi trai, nào mũ bằng mũ
chóp, mũ hình nhọn hình trụ, mũ chóp lụa chóp nhung, nào khăn vấn đầu, nào nón
đội nào mũ rơm, cái thì bé tí như mũi kim, cái thì to lớn như cả lòng tham
muốn. Tóm lại cái đầu chỉ là thứ phụ, chính yếu là phải có cái gì để trên đầu.
Còn những đảng viên “Đầu trần”, họ có lý do gì mà gây với nhau? Họ chẳng để
trần cả cái đầu tóc ra đó sao? Hơn thế nữa chứ! Người thì đầu hói, kẻ thì đầu
cạo trọc. Có đầu hớt ngắn như bàn chải, có đầu tóc để móc ngoéo, những chiếc
trán thấp và những thái dương trơn tru. Tóm lại cái đầu chỉ là thứ phụ, chính
yếu là không được có gì trên đó cả.
Các ý kiến thay đổi như những chiếc đầu và
những chiếc đầu thì quay theo gió, đầu thì về phương đông, đầu thì về phương
tây: nếu tình cờ, chúng có đối mặt nhau, ấy là để chọi nhau, bởi vì không bao
giớ chúng đồng ý với nhau về công việc Quốc Gia cả. Tất cả lại chỉ hợp nhau về
có một điểm, họ cho rằng tất cả những khó khăn của Đất Nước đều do những nhầm
lẫn của đảng bên kia. Nếu tác giả của cuốn sách này không sợ rằng mình nói mà
không nói lên được gì cả, thì ông ta sẽ xin xác nhận rằng, về điểm này, cả hai đảng
đều có lý.
Lúc bấy giờ, trong Quốc Gia đó, có một người
không thuộc đảng “Đầu trần”, cũng không thuộc đảng “Đội nón”. Đó là một người
đàn ông giản dị và khờ khạo, khi lột nón xuống là để gãi đầu và khi đội nón lên
là để ra đường. Chú ta thấy đất nước đang lâm nguy và, vì muốn cứu lấy quê
hương, chú quyết định đi cầu nguyện cho trời mưa xuống. Van xin lòng từ bi của
Đấng Từ Bi, chắc chắn đó là ý nghĩ đầu tiên phải đến trong đầu mọi người. Nếu
dân trong Quốc Gia này không hề nghĩ đến điều đó, chính là bởi con người có
khuynh hướng quên mau hơn hết những gì họ cần phải nhớ hơn hết. Chú khờ của
chúng ta bèn đi một vòng khắp các nhà thờ và khắp các nhà nguyện, nhưng không
tìm ra được một chỗ nào: bọn “Đội nón” đã chiếm hết để dùng vào việc tuyên
truyền cho họ. Vậy là, trùm một cái bao và mình đầy tro tàn, chú ta băng đồng,
đi về phía rừng, đến nơi mà con người không bao giờ đặt chân tới. (Ấy là bởi
người ta thường thích ở thành phố hơn, vì ở thành phố người ta có thể nghe và
đọc những bài diễn thuyết). Và, quỳ trước Chúa, chú cầu khẩn Người với tất cả
lòng thành của chú, chú khóc và cầu nguyện cho mưa rơi xuống và phì nhiêu miếng
đất tang tóc, cầu nguyện cho con người được sống.
Chúa đang chờ đợi lời cầu nguyện của loài
người. Người sẵn sàng chấp thuận những thỉnh cầu của họ: đó là một đấng Chúa
Trời có thiện chí thương yêu loài người do mình tạo ra. Thế nhưng đám dân của
Quốc Gia này quá bận cãi nhau, nói xấu nhau, thù ghét nhau, nên không tìm đâu
ra được thì giờ để nghĩ đến đấng Tạo Hoá và đấng Cứu Thế của họ, nghĩ đến đấng
an ủi và cứu rỗi những kẻ bất hạnh, đến đấng tạo hạnh phúc cho loài người, khi
loài người tỏ ra xứng đáng với lòng thương yêu và sự cứu rỗi. Như vậy là vào
lúc mọi người không còn nhớ đến những gì lẽ ra họ phải nhớ, thì người ta nghe đồn
rằng một người trong bọn đã cầu nguyện cho trời mưa xuống.
Tiếng đồn lan dần và tới tai mấy ông Bộ
trưởng trong Chính Phủ. Lập tức tất cả đều hoảng hốt, bọn “Đầu trần” cũng như
bọn “Đội nón”. Bọn “Đầu trần” sợ hơn hết là lời cầu xin của chú Khờ được toại
nguyện: điều đó sẽ chứng tỏ rằng còn có một sức mạnh ở trên sức mạnh của họ.
Bọn “Đội nón” điên lên vì thấy có một người chưa bao giờ đến trường học của họ,
chưa bao giờ gia nhập những Hội tôn giáo của họ mà cũng chưa bao giờ ăn thức
thừa của những Thầy cả của họ, mà lại xen vào một việc thuộc riêng của họ, là
cầu nguyện. Cầu nguyện là của riêng họ, chỉ họ mới được quyền đem dùng, chỉ họ
mới được Ân Sủng. Thế nên, tất cả, bọn hai đảng náo động và làm ầm lên, viện
nhiều lý lẽ thật là khác nhau. Thật ra, cả hai bọn đều chỉ có một bất bình duy
nhất đối với người cầu nguyện kia: Hắn không thuộc đảng nào cả. Chẳng bao lâu
sự giận dữ chung của cả hai bọn đối với kẻ xâm nhập làm cho họ xích lại gần
nhau, không bằng sự kiện thì cũng bằng chủ tâm. Báo chí trong chiều hướng đó đã
mở một chiến dịch rất hữu hiệu và xúi giục hai đảng hành động. Thật ra người
đàn ông kia là ai vậy? Ai đã sai hắn ta đến? Nhân danh ai và nhân danh cái gì
mà hắn ta cho mình đại diện bên cạnh đấng Tối Cao? Đó là những câu hỏi không
ngớt trở đi trở lại dưới ngòi bút các ký giả. Người ta cười, người ta chế nhạo
cái con người ngây ngô nhỏ bé cứ muốn cho người ta thấy mình là một người lớn
và người ta buộc tội đấng Toàn Năng đã coi thường những vị đại diện Quốc Gia để
đi dùng một nhân vật vô nghĩa đến nỗi không lập ra được một đảng. Cánh cửa mở
rộng cho các lời bình phẩm. Thế là xuất hiện những nhà hùng biện và cùng với họ
là những nhà thuyết giáo, những tay ăn nói lẻm mép và những tay diễn thuyết đủ
các loại. Mỗi người cho ý kiến của mình, bởi vì biến cố kia có thể đem lại lắm
hậu quả. Vì cái lối vô kỷ luật của mình, người kia phải chăng suýt làm lung lay
nền móng Quốc Gia? Hắn ta đã chẳng làm phương hại đến trật tự đó sao? Không
thay mặt cho đa số, mà cũng không thay mặt cho thiểu số nữa, thế mà hắn ta đã
chẳng tự ý dám cho mình làm đại diện bên cạnh đấng Tối Cao là gì? Hắn chính là
một kẻ gây rối, một tên phiến loạn, một kẻ thù của Dân Tộc.
Bút đã đổ ra nhiều mực và các độc giả đã nuốt
hết cả mực trong lọ để rồi liền sau đó khạc ra khắp cả nước. Ai ai cũng đều
biết câu chuyện và hễ có ai mở miệng ra, là người ta ngắt ngang để đem câu
chuyện ra bàn. Nhưng điều lạ nhất là tất cả đều có cùng một ý kiến, và chẳng
những họ cùng nghĩ như nhau mà còn nói cùng một chuyện, bằng một chữ như nhau
và với một giọng nói như nhau.
Người ta chỉnh đốn hàng ngũ, người ta làm
những bản điều trần, người ta gởi đại diện đến gặp mấy ông tổng trưởng. Những
vị này nhận tất cả những bản phản đối và bằng lòng tuyên bố khai chiến, vừa tấn
công vừa phòng thủ, với kẻ đã vi phạm kỷ luật Quốc Gia. Đó chỉ là những bài
diễn văn thôi, người ta chưa hề nghĩ đến hành động. Nếu không có bọn đầu cơ xen
vào, mọi việc sẽ chỉ dừng lại ở đó và sẽ không có gì đi quá được những lời nói
và những câu vu vơ hão huyền.
Bọn đầu cơ, thì dù ở đảng nào, trong đầu cũng
chỉ nghĩ có mỗi một chuyện: làm giàu. Khi tài sản bọn chúng lâm nguy, cả bọn
náo động, vì biết chắc không có gì phá bỏ thành kiến và gây tình thương yêu
được bẳng tiền bạc. Thế là những tay giàu sụ của Quốc Gia nhóm lại thành một
đại hội khác thường. Một hành động cấp bách được coi là cần thiết để ngăn chặn
cái mầm hỗn láo mới mọc ra nhằm phá hoại Chính Quyền, coi thường mọi sắc lệnh.
Giờ phút nghiêm trọng. Tổ quốc lâm nguy. Quốc gia nghèo dần, yếu dần, èo uột,
dân chúng đói khát! Thế mà, hễ bụng đói thì chẳng có gì phải sợ mất, và ai
không có gì để mất thì luôn luôn sẵn sàng nổi loạn. Ở đây tác giả cuốn sách này
phải mở một dấu ngoặc để nhìn nhận rằng bọn đầu cơ nói hết sức đúng sự thật:
dân chúng quả là có đói, có yếu và kiệt sức đi. Bằng chứng rõ ràng nhất là vai
của bọn bồi bàn cong oằn xuống và bị đè bẹp dưới sức nặng của những thức ăn và
thức uống sửa soạn cho buổi tiệc bế mạc Đại Hội các tay Đầu Cơ...
Không có gì bằng được rượu ngon và thịt béo
để làm cho tâm hồn được khoan khoái. Không có gì bằng được một cái bụng no nê
để làm cho trí óc mình dễ hoà hợp. Sau bữa ăn, bọn đầu cơ tươi cười, thư thái
và còn lịch sự nữa, đều đã đồng ý với nhau. Vả lại người ta cũng không phân
biệt ai là “Đội nón” ai là “Đầu trần” nữa. Vì ăn quá nhiều và uống cũng quá
nhiều, cả bọn mồ hôi nhễ nhại. Nhưng, trong khi bọn “Đội nón” lấy nón ra quạt
và trở thành “Đầu trần”, thì bọn “Đầu trần” lấy khăn ra lau đầu và trở thành
“Đội nón”. Và ai cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể coi người đảng kia như kẻ
thù... Họ chẳng giống nhau cả đó sao? Họ chẳng bình đẳng về mọi mặt đó sao?
Cùng đồng ý với nhau, họ quyết định tìm cho ra một giải pháp để giải quyết cơn
khủng hoảng. Giải pháp đó là giải pháp gì? Xin độc giả kiên nhẫn một tí. Nó sẽ
được tiết lộ ngay đây.
Thoạt nhìn thì chuyện giải pháp dường như do
phép nhiệm mầu, thế mà nó có thật đấy. Bọn đầu cơ lăng xăng, sách động những vị
dân biểu và tổng trưởng, mỗi người tấn công vào chính đảng của mình thay vì vào
đảng đối lập, và rốt cuộc tất cả các phe phái đều gặp nhau để hội họp công khai
tại một nơi gọi là “Jacasse”[*] (Đây
là nơi tất cả bọn người đa ngôn dài lưỡi ngự trị.) Có vô số các nhà hùng biện
và những bài diễn văn khác nhau của họ. Nhưng mọi người đều đồng ý báo cho dân
chúng biết trước về mối nguy xảy đến khi bất thần những cơn mưa sắp tới đổ
xuống. Nếu Trời dọn đường cho mưa, nếu Đất có hoa màu, Trật Tự của Quốc Gia sẽ
rối loạn toàn thể, bởi vì Chính Phủ không hề đồng ý. Đó sẽ là công trình của
một kẻ bất tuân đã dám theo sáng kiến của chính mình mà cầu cho trời mưa. Gương
xấu sẽ kéo theo những việc xằng bậy khác, và thêm vào nữa là hoàn toàn tàn phá
Quốc Gia. Thế thì người ta sẽ đi đến đâu nếu bất cứ ai muốn làm gì thì làm,
không cần sự đồng ý của Chính Quyền trong Nước? Vả lại, tốt hơn nên coi chừng
Chúa vì không phải lúc nào Người cũng để tâm đến việc làm của Người và Người có
thể sơ suất để cho mưa rơi xuống lắm. Cuối cùng người ta đồng thanh quyết định
chọn lời đề nghị đưa ra đầu tiên và hành động liền không bàn cãi mà cũng không
trì hoãn, không kèo nài cũng không gia hạn.
Chỉ có những Ông Lớn trong Quốc Gia mới được
vào Hội Đồng đặc trách giải quyết vấn đề. Người ta sẽ không bàn cãi lâu. Dự án
được bọn “Đầu trần” đưa ra. Bọn này không bao giờ thấy thoả mãn: họ thù ghét
mặt trời đã làm khô trí óc của họ và thù ghét mưa đập vào cái đầu hói hay cái
trán để trần của họ. Họ buộc tội Trời nham hiểm bắt họ phải đội nón và, trong
cuộc đấu tranh của họ chống lại kẻ địch kia, họ đã tìm ra một cách bảo vệ: dĩ
nhiên không có một cái nón nào, mà là một thứ lều mở ra vào lúc trời tốt hoặc
trời xấu mà họ gọi là “lọng” hay “dù”. Tóm lại, khi phải che thân dưới Trời,
thì không bao giờ họ chịu vô phương bởi vì về việc này họ đâu phải dân tập sự.
Chẳng có gì là lạ khi họ nghĩ ngay đến việc dựng lên một thứ lều, hoặc giăng ra
một thứ vải bố để che miếng đất Quốc Gia từ đầu đến cuối và để nó khỏi bị mưa
ướt. Như vậy, khi mưa đổ xuống, thì mưa sẽ bị chắn lại giữa chừng và không bao
giờ đến mặt đất được. Ruộng đồng sẽ vẫn không được trồng trọt và Kỷ Luật sẽ
được an toàn: Quốc Gia, khi vật ngã kẻ muốn phá hoại Uy Quyền của mình, tức là
đã bóp nghẹt từ trong trứng những dự định của bọn phản loạn, những đồng loã của
chúng. Đề nghị của bọn “Đầu trần” làm bọn “Đội nón” rất lấy làm vừa lòng. Vì đề
nghị đó dựa trên ý nghĩ “che đầu”, nguyên tắc chính đối với đảng viên Đảng này,
cả bọn bằng lòng đem áp dụng một cách nồng nhiệt.
Người ta liền tổ chức bầu cử một số Ủy Ban:
Ủy Ban thứ nhất lo việc chọn những người đạc đất thành thạo để đo chiều dài và
chiều rộng Quốc Gia; Ủy Ban thứ nhì lo việc đặt bọn thợ dệt làm một tấm bố vừa
bằng diện tích Quốc Gia; Ủy Ban thứ ba liên lạc với bọn thợ mộc để dựng những
giàn trụ nhằm đỡ tấm bố. Một Ủy Ban thứ tư chịu trách nhiệm về việc đặt giàn
trụ và một Ủy Ban khác chịu trách nhiệm về cách thức chôn trụ xuống đất. Sau
rốt người ta chỉ định một Ủy Ban Giám Thị “Thợ Dựng Bạt”. Rồi người ta bầu ra
một Ủy Ban cuối cùng, không để làm gì cả, bầu vậy thôi, và người ta chia Ủy Ban
này ra làm hai Ban, một ban gọi là A và ban kia là B, bầu vậy thôi, không để
làm gì cả. Khi tất cả các Ủy Ban đều được chỉ định, người ta lập ra Ủy Ban của
các Ủy Ban.
Lại còn phải lập ra một Ủy Ban đặc biệt để
tìm một cái tên cho tấm bạt che: Cái gì có mang một cái tên thì có thể trở
thành biểu tượng và đem lại nhiều tiền bạc. Và người ta lại cần tiền, rất nhiều
tiền, để trả công làm tấm bố và công dựng các giàn trụ (và nhất là để cung
dưỡng tất cả các Ủy Ban kia). Vậy là Ủy Ban đặc trách việc đặt tên cho Tấm Bạt
Che khởi nhóm và, sau nhiều phen thảo luận, Ủy Ban này quyết định ủy nhiệm
quyền đặt tên lại cho Hội “Ngữ Học” chuyên nghiên cứu các thổ ngữ. Không còn gì
chính đáng bằng, vì tất cả các hội viên của cái Hội Đồng trứ danh này đều nói
được ít nhất là mười thứ tiếng và biết cả hàng triệu chữ – người ta còn kể lại
rằng có nhiều vị trong số hội viên đó còn biết cả tiếng mẹ đẻ của họ nữa.
Tất cả các Ủy Ban và Ủy Ban của Ủy Ban đều
đặt tại các khu nhà lớn được mướn để làm việc nói trên. Các Ủy Ban này thu nhận
cả một đội thư ký và kế toán viên, gác dan và giữ cổng. Vào ngày đã định, Hội
“Ngữ Học” khởi sự làm việc để tìm một cái tên cho tấm bạt che. Lần bỏ phiếu đầu
tiên, người ta ghi nhận nhiều đề nghị, như là “Pluvioslaire”, bởi vì tấm bạt
được dùng để che mưa, “Logodynaire”, bởi vì nó nhằm tăng cường Luật Pháp và Kỷ
Luật Quốc Gia, “Tectonaire”, bởi vì nó sẽ giống như một cái lều, sau cùng là
“Protestaire”, để đánh dấu việc phản đối những cơn mưa muốn phá hoại Uy Quyền
Quốc Gia. Người ta chọn tên “Protestaire”. Ta nên để ý là tất cả những chữ trên
đều chấm dứt bằng vần AIRE, chắc hẳn là để gợi hứng cho các thi sĩ bằng cách
hiến sẵn cho họ một vần vừa dồi dào vừa thông dụng...
Người ta bầu thêm hai Ủy Ban mới nữa, cả hai
đều phụ trách việc quyết định cách viết dứt khoát của cái tên được chọn. Có
người cho rằng phải viết là “Protestère” và người khác thì bảo phải viết là
“Protestêre”. Một Ủy Ban thứ ba có nhiệm vụ phân định về cách đọc phải chấp
nhận: các ý kiến của dân trong nước rất khác nhau, bởi vì người thì đọc
“Protestêre” kẻ thì đọc “Protestère”. Rồi người ta đi đến chỗ đồng ý với nhau
và chữ viết “Protestaire” làm hài lòng mọi người, những người có chủ trương có
dấu huyền cũng như những người có chủ trương có dấu mũ.
Liền ngay khi tên tấm bạt che được loan ra,
các nhà hùng biện vội chạy đến để cổ võ đám đông và xúi giục họ qui phục kỷ
luật và tấm bạt “Protestaire”. Các tờ báo đăng lại những bài diễn văn của họ và
viết những bài báo khác về đề tài này.
Các thi nhân tuy vậy cũng không kém cảm hứng.
“Rời bỏ những cuốn ký sự u ám để đọc kinh
“Họ cất cao tiếng hát đến độ như nhại lại
“Tiếng kêu vang rền của loài cóc Ai-cập.
Thế nhưng chính phủ vẫn theo dõi cái chính
yếu: mở một công trái và chỉ định những người thu thuế, những người thu ngân,
những nhân viên quảng cáo và giữ cửa. Họ đi rải rác khắp các thành phố và làng
mạc để cổ võ đám dân chúng tụ tập. Họ đều bắt đầu giống nhau là tố cáo mối nguy
hại “gây loạn” và chấm dứt bằng câu tuyên truyền: “Ủng hộ tấm bạt 'Protestaire'
để thống nhất quần chúng và cứu nguy Tổ Quốc”. Những tấm lòng bừng bừng, những
bàn tay đưa ra, những ví tiền mở rộng. Cảm động, đám dân quê rút từ trong các
hang các kẹt ra số lúa thóc mà họ đã đem giấu. Người ta tổ chức những bữa tiệc
linh đình và những buổi tiếp tân dành cho các đại biểu Chính Phủ đã phục vụ cho
Đoàn Kết và Hoà Bình. Người ta ăn, người ta uống, người ta vui đùa. Trông cái
cảm giác khoan khoái chung của mọi người, các vị hôn phu và hôn thê đem biếu
cho Quốc Gia những quà cưới và của hồi môn của họ. Người ta còn thấy cả các ông
già bà cả hy sinh đem vải và quần áo liệm của mình cho tấm bạt “Protestaire”
nữa. Những kẻ nào dám không đem gì đến giúp đều bị hăm doạ báo thù và phải bị
lột hết tài sản.
Số tiền quyên, những quà tặng và đồ vay mượn
đều được tập trung lại. Thợ dệt và thợ mộc bắt tay vào việc, kẻ thì làm tấm bạt
che, người lo làm những giàn trụ, mỗi người thợ dùng màu sắc của nhóm hay đảng
mình, đảng màu đen thì dùng màu đen, đảng màu xanh thì dùng màu xanh, đảng màu
đỏ thì dùng màu đỏ. Tấm bạt che làm xong, giàn trụ được dựng lên. Người ta đặt
tấm bạt che trên các giàn trụ và người ta căng tấm bạt từ đầu này đến đầu kia
trong Nước. Dân chúng ngắm nghía kiệt tác nầy và la lớn, một cách nồng nhiệt:
“Hoan hô tấm bạt Protestaire! Tấm bạt Protetaire đã thắng những trận mưa vô kỷ
luật muốn phá hoại Uy Quyền Quốc Gia! Sung sướng thay cho những kẻ được thấy
Trật Tự vãn hồi và Uy Quyền được tăng cường trong Đoàn Kết và Hoà Bình!”
Lời cầu nguyện của Chú Khờ linh nghiệm và còn
linh nghiệm hơn nữa là ý muốn của Chúa. Người cầm lấy chìa khoá cửa Trời và
quyết định mở cửa cái kho tàng quí báu của Người, là cả bầu Trời. Chiếc chìa
khoá, quá lâu không ai dùng đến, nay bị rỉ hết. Khi được tra vào ổ khoá Trời,
nó kêu ra một tiếng cót két thật khủng khiếp – đó chính là tiếng báo trước có
bão. Gỉ sét loang ra và làm rối cả Trời. Trời bao phủ mây đen nghịt : Sấm
sét nổ ầm và những hạt mưa nặng hột bắt đầu rơi xuống.
Tấm bạt che, rách toang vì cả thác nước, rơi
ra từng mảnh. Mưa đến được mặt đất và làm đất màu mỡ... Thế là công trình của
dân trong Xứ bị cuốn mất. Chính bởi vì công trình có tính cách tạm bợ: cái
chính yếu không phải là Hành Động, mà là Tư Tưởng hướng dẫn nó.
Nước chảy tràn trề, nhỏ giọt trên mặt mọi
người. Các màu sắc trên tấm bố bị nhoè, loang vào nhau, màu đen trở thành đỏ,
màu đỏ qua xanh, và màu xanh thì biến thành hoặc đỏ hoặc đen : Cuối cùng
người ta không còn phân biệt được một màu nào lúc ban đầu cả.
Tác giả cuốn sách này đã có dịp chứng minh
rằng không có điều dở nào mà không có cái hay trong đó. Tác giả vẫn luôn luôn
giữ quan niệm đó mà không sợ phải bị chê cười. Thế nhưng trường hợp ngược lại
cũng đúng. Thế gian dưới này chỉ là một, mà trong đó cái Xấu và cái Tốt lẫn
lộn, không khi nào có cái này mà không có cái kia, bởi vì hiệu quả của chúng
giữ quân bình cho nhau. Nước đổ xuống thật nhiều, nó tưới cho đất và những cánh
đồng đem lại mùa màng. Bây giờ có bánh mì để ăn và nước để uống. Nhưng trong
khi dân đói vui mừng, thì bọn đầu cơ buồn bã nghĩ đến vật giá hạ xuống, và nghĩ
đến số hàng tích trữ kể từ đây đã biến thành vô dụng.
Về phần những Ông Lớn trong Nước, nỗi vui của
họ không phải là không gợn buồn, bọn “Đội nón” buồn, vì nón mũ ướt hết coi mất
cả vẻ chỉnh tề, bọn “Đầu trần” buồn, vì nước thấm lạnh chiếc đầu hói và hai bên
thái dương để trần của họ.
Kẻ thù trong nước vậy là đã bị quật ngã, còn
lại kẻ thù đang hăm he ngoài biên giới. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác...
_________________________
[*]“Jacasse”,
từ nguyên nghĩa là người đàn bà hoặc con gái lắm mồm.
-------------
“Tấm bạt” dịch từ bản Pháp ngữ “La bâche” của
Rachel và Guy Casaril trong Les Contes de Je´rusalem (Paris:
Albin Michel, 1959). Tập truyện tiếng Pháp, theo bài tựa, là môt tập tuyển
những truyện ngắn và những đoản trích văn rời rạc của Ch.-Y. Agnon do chính các
dịch giả người Pháp chọn và sắp xếp. Bản Việt ngữ từng xuất hiện trên tuần
báo Đại Dân Tộc số 3 [1] ra ngày 11.10.1969 ở Saigon dưới cái
tên “ăn khách” hơn, “Tấm bố quái dị” – chắc hẳn tên do tuần báo ấy đặt – một
năm trước năm tác giả qua đời. Trong tiểu sử tóm lược từng được in cùng với bản
dịch trước đây, phần giới thiệu truyện đã được “cập nhật chấm phá”...
Nguồn: Tiền Vệ
Dịch: Nguyễn Thu Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com