2 thg 8, 2013

Gửi N. (3)



Gửi N. (3)



J.Dournes nói: “Những yếu tố trung tâm của bất cứ nền văn hóa hoặc văn minh nào cũng là ngôn ngữ và tôn giáo.” Điều tôi muốn đề cập là ngôn ngữ Cham - thứ tiếng mà ta đang quay lưng khi trám được vẻ sáng sủa khuôn mặt trong giàu có hay tài giỏi; thứ tiếng khiến ta mặc cảm bởi vì nó thuộc sở quyền của đám thiểu số - đám mà lúc nào trong tâm thức của dân tộc lớn cũng dán cho là đám lạc hậu, mọi rợ; thứ tiếng khiến ta to tiếng với nhau để đạp phăng mọi rào cạn và tính ước lệ của luân lý đạo đức thường nhật. Tôi gào lên một tiếng OM.


Tiếng mẹ - đó là thứ tiếng để ta bập bẹ, ta thốt lên ở thuở nằm nôi, thuở thiếu thời; đó là thứ tiếng mà tổ tiên, ông cha, anh chị đã bày tỏ về tình yêu dân tộc, quê hương, đôi lứa; đó là thứ tiếng để trang điểm nét đẹp cho phông nền văn hóa, vẻ huyền diệu để dệt lên nền văn minh – thứ văn minh của một vương quốc cổ Champa đã ngủ, mà hơi thở của nó đang dần dà thóp lịm trên chính mảnh đất đám dân Cham đang sinh sống; có khi ngay cả trong lòng nó. Và đặt biệt – đó là thứ tiếng diễn tiến ở một đời sống khác – thứ tiếng mà ta luôn giao tiếp bởi câu chuyện trong giấc mơ, trong nghi lễ để làm giáo dân Bà-la-môn trước khi trở về với linh hồn thiêng cổ. Nhưng oái âm thay bây giờ chúng ta có quá nhiều nhân chứng sống, mà không làm sao nhận diện được cái điều cần nói? Tại sao! Phải chăng chúng ta chưa đủ thẩm quyền để nói về số phận của hơi thở mình đang hấp hối; phải chăng chúng ta còn đợi chờ sự cáo chung về cái chết – để tất cả chìm hẳn trong câm lặng? Có thể lắm! Có lẽ đôi lời của tôi lúc này cũng không cố gây hấn hay cố làm xôn xao bởi lẽ phải lên tiếng để phá bỏ đi những ước lệ rào cản, những bức tường còn đang thinh lặng. Mà, dù là gì thì tôi vẫn muốn nói – nói, có khi chỉ phát tiếng thì thầm đủ cho riêng tôi nghe. 


Trong diễn từ Nobel văn học 1993, Tony Morrison đã cảnh báo về cái chết chung của ngôn ngữ. Tộc người đó là kẻ chịu trách nhiệm - nhất là giới trẻ. Về ngôn ngữ Cham, ai có thể kết án trẻ con là những người giết chết ngôn ngữ của dân tộc họ, nếu không nói đến sự chỉ dẫn, góp tay của những thế hệ đi trước; của qui-chế giáo dục định hành! Ở trong những palei Cham, ngôn ngữ chữ viết Cham chỉ phổ cập hết cấp tiểu học cho con em của họ; vị trí của nó bị đảo lộn trở thành ngôn ngữ thứ hai, sau tiếng Việt - lúc nào cũng vậy - tiếng mẹ luôn được đặt sau tiếng Việt. Bậc cha mẹ, có lẽ họ là những công nhân, viên chức – những người được gọi là trí thức Cham – có vài người trong số đó vì ở phố thị quá lâu đã mất chứng bệnh sĩ diện và học đòi – ví von việc cho con em mình theo học tiếng Phổ Thông sẽ làm cho nó thông minh hơn, lanh lợi hơn là việc gần gũi với tiếng mẹ. Với thái độ lạnh lùng để quay mặt, chối bỏ - họ đã không ngại ngùng ném những đứa con vào nhà trẻ, vào trường điểm ở phố thị để tách biệt với cái nôi của nó, xa lánh những người thân, palei mà lúc nào cũng nâng niu con cháu mình bằng tiếng mẹ thân thương. Ai? - Ai chắc rằng - là học tiếng Cham sẽ khiến những trẻ em đần độn, ngu dốt, chậm phát triển? Tôi cũng lấy làm lạ, khi chứng kiến một gia đình Cham có người làm đến đại biểu quốc hội, đại diện cho đám dân Cham ở Ninh Thuận – những thành viên trong gia đình lại giao tiếp hàng ngày với nhau bằng tiếng Việt - ngay giữa lòng palei Cham – Ôi! Buông tiếng Cham khi gặp nhau, giao tiếp đáng xấu hổ đến vậy sao? Họ lãng quên tính thiểu số hay sao, họ nghĩ họ là ai – nếu không là Cham? Có một lần tôi gặp một bé gái khoảng năm tuổi ở dưới quê Caklaing, tôi chỉ thấy em nói tiếng Việt – khi tôi hỏi bé: “Con không biết nói tiếng Cham sao!” Bé trả lời: “Không, vì ở nhà ba mẹ không nói chuyện với con bằng tiếng Cham.” Đấy! Số phận của tiếng Cham, còn gì để ta hoài niệm và nói đến. Còn tôi, nếu có người hỏi: “Nếu cho anh sự lựa chọn, anh sẽ đưa ngôn ngữ Cham về đâu?” – Trả lời: “Về phía lỗ.” Vì sao ư! – Văn hóa Cham là thế, chỉ có cái chết mới xuất hiện nhiều lễ nghi long trọng. Còn nếu như ngôn ngữ chết, tôi nghĩ lúc đó sẽ có những khuôn mặt hoành tráng mặc áo tang đứng thành hàng trong câm lặng; nếu cho phép nói hay đọc lời điếu tôi tin chắc họ chỉ có thể nói trong vô thức hay bài thuộc lòng; và tôi cũng tin chắc sẽ có một lực lượng đại diện cho ban ngành nào đó ghi ghi chép chép gì đó về nó để tỏ vẻ trí thức hay trục lợi riêng - đố trời mà biết họ đang mưu mô làm gì nữa vào lúc này! Tôi cũng tin chắc sẽ không có nước mắt thương xót nào nhọ xuống – vì nếu có lỡ rơi nó cũng không nói lên điều gì thêm nữa. Muộn rồi. - Những tiếng ồn ào bấy lâu nay chìm trong trạng thái hỗn-ngôn của OM.

Một câu hỏi cho bạn và cả tôi: “Có ai tìm được dấu vết của cội nguồn của dân tộc mình qua trang viết chữ Cham, bia ký hay những cuốn sách có biên soạn bằng chữ Cham – nếu không là bản dịch qua tiếng Việt?” Về điều này, tôi chấp nhận ý của thiên hựu Nguyễn Thành Thống đã hé mở rằng: “Chưa có ban khoa ngành nào ở tất cả trường đại học ở Việt Nam cho nghiên cứu sinh tìm hiểu về nó qua bia ký trên những di tích – mà tháp Cham là điển hình".

Hai điểm tôi muốn nói lên về ngôn ngữ, chữ viết Cham bây giờ, đó là: 

- Thứ ngôn ngữ được cưu mang như gánh nặng.
- Thứ ngôn ngữ được bảo – dưỡng như kẻ tàn phế.

1.
Bởi ngôn ngữ Cham không là cứu cánh cho môt đời sống cón lắm nghèo khổ của đa số những đứa con Cham. Điểm này, ngôn ngữ - lắm khi nó chỉ là cứu cánh cho chính nó. Khi không có một phông nền cơ bản về văn hóa, ngôn ngữ sẽ không là lực cảm-truyền cho một cảm giác, thái độ và triết lý sống của người Cham. Tất cả chúng ta đều thấy những điểm này trong ngôn ngữ nói của tiếng Cham thường ngày đang pha lẫn tiếng Việt càng nhiều. Nếu trong cộng đồng có ai nhắc tới những từ thuần Cham - thì hoàn toàn xa lạ cho người nghe - và mọi thứ, không thể xoay chuyển vào ý nghĩa của nó - mà ta sẽ nhìn nhau một cách ngờ nghệch và buồn cười. Hoàn toàn khó chịu. Cũng chính bởi thế - việc khuyến khích Viết & Đọc - khiến nhiều người châm chích, mỉa mai nhau.

2.
Ngôn ngữ Cham - với nó, chỉ một số ít người còn quan tâm. Họ là ai nếu không là những đứa con Cham? - Ừ! Họ là những nhà nghiên cứu, những người làm ở công tác giáo dục, những chức sắc hành lễ, những văn nghệ sĩ, những người lưu vong và cả những người âm thầm trong góc khuất của cuộc người - còn đọc và viết. Vì lẽ gì họ còn giữ sứ mệnh của mình với nó! - Có thể là họ đã yêu! Yêu thì miễn bàn - một vần thơ, một câu ca dao, một câu tục ngữ; một bài đồng dao, một bài truyện cổ,... dù họ biết cuộc sống còn kham khổ - và việc này chỉ đủ trang trải cho một đời sống còn lắm chật vật hay vỗ về vết thương của một thời quá vãng. Vậy chỉ yêu thôi có đủ để cứu mọi thứ đang cuốn chìm trong dòng đương đại đa-thanh sắc này không?

Một điều nữa, dù dân tộc Cham được cho là thiểu số trong đất nước đa sắc tộc này, nhưng ngôn ngữ của họ, ngôn ngữ đã song hành với nền văn minh - sánh ngang với thế giới không thể là thiểu số. Giờ nhịp đập của nó đang yếu đi, có lắm người kệch cỡm tự ban gán một thế lực để lên dây cót - nhào nặn nó. Họ ví như họ là người duy nhất có thẩm quyền sở hữu và bảo dưỡng kẻ tàn phế này. Riêng bạn, bạn đang nghĩ gì về tiếng mẹ?


Baigaon, 3.2009

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

thach.michelia@gmail.com