Núi Cabbang, nhìn từ palei Caklaing |
Trong lễ
hội dù lớn lớn hay nhỏ trong cộng đồng Chăm chứa đựng nhiều hình thức nghệ
thuật, từ nhạc, múa, thơ ca cho đến cách thức sống, sinh hoạt cộng đồng tạo
những nét đẹp văn hóa đặc trưng. Riêng lễ hội nữ thần Po Nai ở núi Cabbang, ta
không chỉ cảm nhận cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vu, u tịch mà còn cảm nhận
một lễ hội đầy huyền bí mà cứ hàng năm vào tháng giêng (sau lễ hội Rija Nưgar)
tính theo lịch Chăm, tức khoảng tháng 4 theo Dương lịch, tất cả các làng Chăm lên
núi Cabbang để hành lễ.
Hồi nhỏ tôi
thường hay nghe các chú, bác và những người dân Chăm trong làng Caklaing kể về
sự huyền bí của ngọn núi Cabbang (huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) – ngọn núi
chỉ cách palei làng khoảng 10km. Khi
ra ngoài đường làng ngước mắt nhìn về phía nam ta sẽ thấy ngọn Cabbang đứng
sừng sững với vẻ uy nghiêm riêng của nó. Với người Chăm, người phụ nữ thường
hay lo về khâu hành lễ và cầu nguyện từ trong gia đình đến những đền tháp vào
những dịp lễ nghi trong phong tục tập quán Chăm, đàn ông chỉ phụ giúp ngoại trừ
những người đang giữ chức tu sĩ hay thầy tế lễ - thường thì đàn ông hay lo về
vấn đề ngoài xã hội nên hay gặp nhiều chuyện li kỳ để tán gẫu trong bàn nhậu,
quán café cốc. Chú tôi khuyên, khi lên núi Cabbang thì không nên nói những ngôn
lời tục tĩu, hay than thân trách phận vì nữ thần Pô Nai sẽ làm hoa mắt, lạc
đường và sẽ bị hổ vồ, rắn mổ. Một chuyện nữa về đời thường mà chú tôi kể thêm,
trong một đợt chú đi theo đoàn để đốn gỗ làm nhà, cả đoàn người đã thấy một con
hổ ẩn hiển quanh đoàn xe bò, không chịu đi. Ai cũng sợ, nhưng khi họ ngồi lại tiến
hành nghi lễ- lấy một chén nước sạch, một chai rượu nhỏ, ba quả trứng vịt luộc,
khấn và cầu nguyện với nữ thần Pô Nai. Xong, thì bỗng con hổ không thấy xuất
hiện quanh đó nữa. Những người thường hay đi rừng, đi núi hay kể về những người
đi lạc, hay bị nhiều thú rừng đe dọa, hay gặp chuyện không hay với núi rừng
thường hay khấn cầu Bà. Chú khuyên thêm, rừng núi có khi là nơi nguy hiểm với
ai thiếu niềm tin vào cuộc sống, cũng có khi là nơi linh thiêng với những con
người tin vào thần Yang. Nhiều chuyện huyền bí quanh núi Cabbang khiến tôi tò
mò. Về sau tôi mới nghe gần như trọn tích về ngọn núi này.
Theo truyền
thuyết, người con gái đầu trong ba con gái của nhà trời được cử xuống trần gian
để cứu nhân độ thế. Theo tích kể, khi giáng trần nàng hóa kiếp là con gái út
vua Poramê (1627 – 1651) với tên là Nai Tang Ya Bia Atapah. Lúc đó tình hình
đất nước Chiêm thành trở nên rối ren về chính trị và suy yếu, để giữ mối bang
giao với tộc người lân cận Poramê buộc gả nàng cho tộc trưởng người Raglai có
tên là Cei Kamao. Cei Kamao là một tộc trưởng trẻ, khỏe mạnh, tài giỏi. Để giúp
vua cha phò nước và để giữ mối hòa hiếu với các dân tộc anh em nên công chúa
đành chịu. Trước khi chấp nhận cưới xin- nàng và đoàn tùy tùng theo Cei Kamao
du ngoạn rừng núi, nơi chốn chàng sống. Mọi sự thể trong tìm hiểu và chung sống
đã biến đổi khiến nàng rời bỏ Cei Kamao, rời bỏ chốn hoàng cung xa hoa của vua
cha vào rừng lên núi, xuất giá (Atapah) tu hành. Người đời sau kể nhiều dị bản
về nguyên nhân khiến nàng lên núi tu hành, tôi chỉ liệt ra hai tích kể, nguyên
nhân đầu là nàng không chấp nhận với vua cha về cuộc hôn nhân bị ép buộc này.
Dị bản khác lại cho hay, trong một thời gian tìm hiểu, nàng thấy giữa lối sống
của người Raglai quá khác xa so với hoàng cung và cách để chung sống với Cei
Kamao là không thể. Nàng chê và sợ chàng bởi chàng luôn đóng khố và luôn đeo
một cây dao bên mình. Chàng cứ theo đuổi nàng mãi nên nàng sợ và bỏ đi. Khi
nàng bỏ đi lên núi tu, Cei Kamao chờ mãi không thấy nàng trở về nên đi tìm. Qua
nhiều ngày tháng tìm kiếm nơi núi nàng đang tu hành để mời nàng về nhưng đều không
thể. Trong cơn giận dữ bởi sự khinh khi, Cei Kamao gương nỏ thần bắn lên ngọn
núi, mũi tên thần trúng làm nứt ngọn núi ra làm đôi (người Chăm gọi “cơk talah
Cabbang” – núi chẻ đôi). Từ sự tích này mà người đời về sau gọi ngọn núi này là
Cabbang.
Do khả năng tu
hành tinh thông Bà đã chứng đạo, Bà hay hiện thân cứu giúp và che chở người
Chăm trong vùng mỗi khi gặp hoạn nạn. Về sau tưởng nhớ đến công ơn của Bà,
người Chăm đã lên núi nơi Bà ẩn thân tu hành tạc một bệ thờ Linga bằng đá sa
thạch, cao khoảng 0,6 mét. Linga được chia làm 3 phần, liền thành một khối.
Phần đầu ở phía trên cùng hình tròn (Rudrabhaga)- tượng trưng cho thần Shiva,
phần giữa hình bát giác (Visnubhaga) - tượng trưng cho thần Visnu, và phần dưới
cùng hình vuông (Brahmabhaga) - tượng trưng cho thần Brahma. Ba vị thần này trong
tâm linh Chăm xem như là “tam vị nhất thể” (Trimurti). Về sau chẳng biết như
thế nào Linga ở chỗ thờ Bà bị mất, dù là vậy, theo phong tục hàng năm cứ vào
tháng giêng (lịch Chăm) người Chăm, cả Chăm Bàni (Awal) và Chăm Bàlamôn
(Ahier) sắm đủ các lễ vật chay tịnh lên núi cúng cho Bà. Trong hệ thống thần linh
Chăm tại Ninh Thuận tên Bà được dân Chăm tôn xưng với danh hiệu là Po Nai. Bà
được thờ như thần hộ mệnh của dân tộc Chăm ở quanh.
Trong lễ hội dù
lớn lớn hay nhỏ trong cộng đồng Chăm chứa đựng nhiều hình thức nghệ thuật, từ
nhạc, múa, thơ ca cho đến cách thức sống, sinh hoạt cộng đồng tạo những nét đẹp
văn hóa đặc trưng. Riêng lễ hội nữ thần Po Nai ở núi Cabbang, ta không chỉ cảm
nhận cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vu, u tịch mà còn cảm nhận một lễ hội đầy
huyền bí mà cứ hàng năm vào tháng giêng (sau lễ hội Rija Nưgar) tính theo lịch
Chăm, tức khoảng tháng 4 theo Dương lịch, tất cả các làng Chăm lên núi Cabbang
để hành lễ. Những đồ dâng
cúng Po Nai chủ yếu là hoa quả và các loại bánh, hình thức cúng chay. Lễ hội Po
Nai có hai hình thái: Lễ nghi tôn giáo và lễ hội tín ngưỡng dân gian. Làng Chăm
Bàlamôn chỉ tổ chức lễ hội tín ngưỡng dân gian, còn làng Chăm Bàni tổ chức cả
hai lễ. Cả hai lễ đều mang tính chất cầu đảo, gắn liền với lễ nghi nông nghiệp,
cầu mưa thuận gió hòa, cầu mùa màng bội thu, cầu sự sinh sôi nẩy nở cho người,
vật nuôi, cây trồng. Qui mô lễ tùy theo cộng đồng làng nhưng tính chất lễ hội
diễn ra trong một không gian rộng lớn, khắp 22 làng Chăm trong tỉnh Ninh Thuận
đều tham gia.
Lễ còn nói lên
tính chất hợp nhất hai ý thức hệ, mà vua Poramê đã có công dựng lên. Lưỡng thể
hợp nhất giữa hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni.
Lễ nghi
tôn giáo
Các chức sắc
Bàni làm lễ gồm: Imưm, Katip, Mưdin. Địa điểm trong hang đá. Theo truyền thuyết
đây và nơi tu hành của Bà được phủ bằng một lớp cát. Lối đi lên phải qua kẽ nứt
của tảng đá vừa đủ một người đi, cao khoảng 20m. Cuộc lễ bắt đầu từ 12 giờ – 13
giờ (tuk wah Rik) giờ hành lễ thứ 3 trong khoảng 6 giờ hành lễ quan trọng của
người Bàni. Mỗi tín đồ chỉ được dâng 3 miếng trầu têm (ppathuw kluw kapu hala)
để các chức sắc làm lễ đọc kinh cầu thánh Allah ban phước lành, cầu nguyện mọi
điều tốt đẹp trong mùa mới.Một tín đồ Kết thúc lễ cầu kinh họ trở lại nơi thờ
Bà để tổ chức lễ hội dân gian.
Lễ hội
tín ngưỡng dân gian
Chủ yếu bên
nghi lễ người dân Bàlamôn. Chủ lễ là ông Mưdwơn (thầy vỗ trống baranưng), ông
Ka-ing (thầy bóng múa) và các nghệ nhân sử dụng nhạc cụ truyền thống: trống
ginang, kèn, xaranai, ceng. Lễ vật gồm những vật chay: hoa quả đủ loại, mía,
xôi, đường, ngoài ra còn có nước, trứng, trầu, cau để khấn các vị thần khác.
Vào lễ ông
Mưdwơn, ông Ka-ing làm phép tẩy uế thân thể, mặc lễ phục, làm phép thỉnh nước
thánh, làm lễ tắm tượng (ppamưnei patuw), và mặc lễ phục vào tượng. Sau đó lễ
vật được dọn ra sàn.
Ông Mưdwơn, ông
Ka-ing đốt trầm, rót rượu khấn các vị thần siêu nhiên: Yang Pô Yang Mư. Sau đó
khấn mời các vị thần:
Pô Tang Pô
Xah Inư
Pô Riyak
Cei Tathun
Pô Gihluw
Cei Xah Ban Bangu
Pô Than Cei
Dalim
Pô Thai Cei
Xit, Cei Praung
Pô Atang
Ahok Bia Apakal
Pô Rame
Dara Nai Naih
Pô Klaung
Chan Patra Dalai
Pô Dam
Patra Nưgar
Pô Klaung
Kasait
Sau lần khấn
mỗi vị thần ông Mưdwơn, ông Ka-ing rót rượu dâng mời tín đồ chấp tay cầu
nguyện, cầu an, cầu phúc và cầu sự bình yên cho xứ sở. Ông Mưdwơn vỗ trống
baranưng hát mời thần trong lúc ông Ka-ing múa hầu. Tùy mỗi vị thần và lời hát
mời mà nhạc công tấu điệu trống, điệu múa tương ứng.
Múa hầu nữ thần
Pô Nai vị thần trung tâm cuộc lễ, ông Ka-ing mặc y phục nữ, bưng hoa quả múa
dâng Bà theo điệu nhạc nhẹ nhàng, khoan thai. Sau đó ông múa đãi rượu cho các
nghệ nhân và có khả năng lên đồng thông báo điều tốt xấu trong năm. Ông Mưdwơn
vỗ trống baranưng hát bái thánh ca 41 câu ariya Nai Tang Ya Bia Atapah, diễn tả
quá trình tu hành khổ hạnh và sự cứu nhân độ thế của Bà.
Alwah
ppacrauk kanai biak tơl
Bwơl grơp nưgar
ppok khwai limah
Đa ka nưgar
dwix xak
Yang
aditiak tiap Nai mưrai
Nai klak
nưgar Nai mai
Đwa gaun patrai rai daung nưgar…
Tạm dich:
(Trời ban
cho Ngài hiển linh
Thần dân
khắp xứ tôn vinh muôn vàn
E cho xứ sở
gian nan
Trời đưa
Ngài xuống cứu an dân lành
Cõi tiên
Ngài đã có căn
Bởi lệnh
thượng đế giáng trần đi tu…)
Lời diễn xướng
quá trình tu hành khổ hạnh và sự hy sinh cao cả để cứu nhân độ thế của Bà đã
khiến nhiều người rơi lệ. Nó cuốn hút mọi người vào cuộc. Lễ múa trở thành hội
múa say sưa, mồ hôi đẫm áo mà họ không cảm thấy mệt. Phải có sự can thiệp của
người ngoài cuộc, họ mới ngưng. Kết thúc cuộc lễ họ cảm thấy nhẹ nhàng, thỏa
mãn về tâm linh và tự tin sẽ được thần linh chứng giám lời cầu xin của họ.
Dân làng truyền
tụng, Bà rất hiển linh, khi người dân lâm nạn cầu cứu thì được Bà cứu và giúp.
Ở vùng núi này còn có cả những nhóm cây thuốc Nam (agha harơk) thuộc địa phận
Ngài tu hành, dùng chữa bệnh rất hiệu nghiệm. Nhưng Bà cũng nghiêm khắc với các
điều kị. Mọi người đi qua vùng núi Cabbang không được nói tục hay chửi thề,
không được nói đùa bằng tiếng Raglai, không được dùng đồ dùng của người Raglai
như: bị lát (kabik), dao đeo ở lưng (adhaung plah) và đặt biệt không có người
Raglai nào sống hay đi qua vùng Bà tu hành. Nếu vi phạm sẽ bị Ngài trừng phạt:
rắn mổ, hổ vồ, lạc đường hay đau ốm… Nếu biết ăn năn hối cải thì được Ngài cứu
độ. Riêng phần lễ nghi, sau buổi cầu cúng thần, trời sẽ đổ mưa. Dòng sông đang
khô hạn bống trở thành đầy, dòng nước chảy xiết. Giếng nước đang khô cạn thì
mạch nước lại tuôn trào. Lúc nhỏ tôi cũng có dịp theo gia đình lên núi,
nơi đặt đền thờ nữ thần Pô Nai để dâng vật làm lễ. Tôi đã chứng kiến sau hành
lễ, tối đến trời sẽ nổi sấm chớp ở phía Tây–Nam và ập mưa.
Về sau, cũng
vài lần tôi leo lên núi Cabbang, dù lễ hay không lễ, đọng lại trong tôi là âm
điệu ông Mưdwơn trong bài tụng ca, kể về nữ thần Pô Nai. Nét sinh hoạt văn hóa
luôn khắc lên trí nhớ những đứa con Chăm về những thần Yang của họ.
Sài Gòn, tháng 4/2011
Ghi chú:
Palei
Cakleing (làng Mỹ Nghiệp), làng dệt thổ cẩm Chăm – thuộc huyện Ninh Phước, tỉnh
Ninh Thuận, cách thành phố Phan rang khoảng 7km.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com