Tuệ Nguyên & Đồng Chuông Tử |
Thơ Việt hôm nay, dòng chảy từ các tác giả trẻ Chăm
(Tham luận tại Hội nghị Những người viết văn trẻ TP.HCM
lần 3/2011)
Nhắc đến Chăm, người ta thường nhớ
ngay đến những ngọn tháp Chàm mọc lên đỏ rực, huyền thánh trên những quả đồi
tươi xanh, lộng gió xuyên suốt miền Trung và Tây Nguyên hàng bao thế kỷ nay.
Nhắc đến Chăm, người ta cũng nhớ
ngay đến những công trình nghiên cứu về lịch sử, kiến trúc, điêu khắc, những
công trình về văn hoá Chăm, lễ hội dân gian, âm nhạc truyền thống,… của các nhà
nghiên cứu tên tuổi trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Nhắc đến Chăm, người ta cũng nhớ
ngay đến một dân tộc đã trải qua một thời kỳ lịch sử đầy biến động, lúc rực rỡ
hưng thịnh, khi suy vi cực kỳ. Nay dân tộc đó đang sinh sống hoà bình, mến
khách trên dải đất hình chữ S hùng vĩ, thơ mộng cùng cộng đồng 54 dân tộc anh em.
Và nhắc đến Chăm, những thế hệ
người yêu thơ Việt, hẳn cũng còn nhớ đến tập thơ Điêu
tàn của thi
sĩ Chế Lan Viên, vào những thập niên đầu thế kỷ XX, thiên niên kỷ trước.
Và phải chăng chỉ có vậy? Phải
chăng một dân tộc với nền văn minh chữ viết xuất hiện sớm vào loại tốp đầu khu
vực Đông Nam Á, mà nền văn chương chẳng giới nào thèm đếm xỉa đến? Phải chăng
lời tuyên bố của Paul Mus, nhà dân tộc học nổi tiếng thế giới người Pháp, giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX là sự thật? Ông ấy tuyên bố rằng: “Văn học Chăm chỉ có
thể tóm gọn trong 20 trang giấy”, mà thôi.
Phải chăng Chăm là một dân tộc lại
tiếp tục nghèo nàn về suy tư văn học đến vậy? Với vỏ bọc ngôn ngữ mới là tiếng
Việt, tâm hồn Chăm bỗng bị mắc kẹt, tự ti bởi rào cản ấy trong sinh hoạt đời
thường, tư duy và sáng tạo nghệ thuật như nhiều người khác tộc nào đó từng nói
từng nghĩ ư?
Dân tộc Chăm đã mất mát nhiều, điều
đó ai cũng biết. Những học giả, nhà nghiên cứu tùy lĩnh vực chuyên môn của
mình, đã công bố nhiều công trình liên quan đến dân tộc ấy. Họ trở nên có danh
tiếng lớn. Công sức họ bỏ ra, thành quả họ được nhận lại tương xứng. Nhưng thử
hỏi, ai dám dũng cảm đến khờ khạo bỏ cả đời mình đi nghiên cứu một dân tộc, mà
biết trước dân tộc đó chẳng có hấp lực gì, sự xúc động nào đáng kể.
Và Chăm là một dân tộc hội tụ đầy
đủ những điều đáng kể. Di sản hôm qua, đời sống cộng đồng xen cư, cộng cư hôm
nay, đều là những đối tượng đáng để thể hiện. Không chỉ trong những công trình
khoa học chuyên nghành, có lúc khô khan, đơn điệu, mà loại hình thơ ca, cô
đọng, dễ nhớ dễ thuộc cũng phải can dự vào. Không phải can dự cho có, mà can dự
như những bông hoa đẹp, ai ngắm cũng trầm trồ, trong vườn hoa đa sắc đa thanh
ấy.
Những cái tên như Trầm Ngọc Lan, Inrasara, Trà Vigia,…
thế hệ đàn anh đã “dấn thân”, khai lộ con đường đi riêng. Và thế hệ kế tục như
Jalau Anưk, Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Chế Mỹ Lan, Bá Minh Trí, Thông Minh
Diễm,… đã lần lượt xuất hiện. Mặc dù xuất hiện với tâm thế khác, không phải
ngôn ngữ mẹ đẻ nhưng họ “mặn mòi” tâm hồn Chăm, thấm đẫm tinh thần minh triết
Chăm.
Lời tuyên bố của Paul Mus ngày xưa,
theo thời gian đã mất hoàn toàn giá trị. Công trình Văn
học chăm, khái luận – văn tuyển của
Inrasara ra đời năm 1994 đã vô tình hay cố ý xô ngã thảm hại lời tuyên bố có
phần vội vã ấy.
Và với những tập thơ đã ấn hành vài
năm trở lại đây của các tác giả trẻ Chăm, cũng đã phần nào chấm dứt tình trạng
thương vay khóc mướn.
Từng ngóc ngách của đời sống, nơi
họ đến, đi, trở về, được họ quến lại cảm xúc mình. Đặc sệt nồng độ, tươi rói
hình ảnh, ngôn ngữ.
Ở nơi xó xỉnh nào đó, họ ở lại, dịu
dàng tiếp biến ngữ cảnh hay cô đơn miệt mài định phận. Chẳng hề hấn gì, họ vẫn
say sưa thắp sáng ngọn lửa thơ ca, ôm mang nó phiền muộn nhiệt tình trên mọi
nẻo lãng du.
Chẳng hạn, khi đang trên đường từ
Hà Nội thấm tràn cơn lạnh xuôi về phương Nam nắng gió rát rạt, nghe tin nước
Nhật bị động đất sóng thần tàn phá, Đồng Chuông Tử đã bật “chốt cửa” lòng mặc
những câu thơ trào ra cuồn cuộn, nghẹn ngào bên dòng Thu Bồn ở Hội An.
Có những lúc con rũ rượi một
mình phía sau câu thơ vừa ngã rạp
ngôn ngữ nhỏ bé, hữu hạn, lạc
lõng trợ duyên thâm trầm
tụ trên cánh đồng nắng như hạt
muối buồn
Có những lúc con phụt khóc một
mình phía trước màn hình
tin tức ngắn củn
xót tinh thể bụi
Mặt trời chợt lặn trên đất nước
hằng mọc ánh sáng
Japan,11.3, cháy bùng ngọn sóng
vỡ vạc bí bầu
trỗi thức lở lói
Japan, 11.3 thế giới nhận diện
âm thanh gãy
đổ lênh láng mặt đất
Trang kế sẽ là thành phố trùm
chăn ngủ
và gặt hái tâm hồn nhân loại ăn
năn
Thượng Đế, cha vừa dựng lên xơ
xác nỗi đục.
Yêu thương, quãng đại có là hư
cấu?
Bài thơ này nằm trong tập thơ Giữa
một thế giới vắng Thượng đế, tập thơ thứ ba sắp ra mắt của Đồng
Chuông Tử.
Hay như Tuệ Nguyên phiêu lãng bốn
mùa, thoắt Bắc thoắt Nam, thoắt miền Trung bão lũ thoắt Tây Nguyên xanh tươi,
khí hậu mát mẻ. Anh có lần tâm sự là “đi để sống và tìm cảm giác sống”, còn trẻ
không có nghĩa là vốn ít , thiếu năng lượng để nạp cho suy tư của mình. Trong
bài thơ Như
một nghịch lý”, Tuệ Nguyên viết rằng:
“Khi
họ thấy tôi ngước mắt nhìn họ ngờ nghệch – họ đưa ánh mắt về phía tôi, như trấn
an ngầm: Đối diện với sự thật như thế sẽ làm cho anh chẳng dễ chịu đâu!”
Với tập thơ mới nhất sắp xuất bản
có tên gọi Mi
và ngôn lời, nhà văn Nguyễn Đình Chính viết tựa rằng: “Thơ Tuệ
Nguyên là những gam màu của lửa. Ai chưa hiểu, sẽ rất khó mà đồng cảm ngay
được”.
Còn với Chế Mỹ Lan, nhà thơ nữ sinh năm 1975, hiện định
cư ở Hoa Kỳ, trong tập thơ Em và màu mây qua thápdo Nhà xuất bản Văn Học ấn hành
năm 2008, thì thơ là những hoài niệm về xứ sở xa xôi, nhớ thương quá khứ dịu
vợi, nhớ cả những màu mây ngũ sắc bất giác trôi qua đỉnh tháp quê mình.
Chế Mỹ Lan tâm sự:
Màu mây trắng hay màu của nỗi
nhớ
Tháp miệt mài đánh bạn với thời
gian
Rừng không còn hoang, người vẫn
biệt mù
Tháp đứng mãi cho đến ngày tận
thế!
Một tác giả khác cùng sinh năm 1975 với Chế Mỹ Lan, là
Jalau Anưk, anh là con trai đầu của thi sĩ quá cố Jalau, được độc giả biết đến
với bài thơ Hạt
sương của tôi, tham dự ở nhiều tuyển tập thơ cả nước. Bút danh
Jalau Anưk là phiên âm La tinh từ tiếng Chăm, tiếng Việt có nghĩa là “Con của
Jalau”. Anh là giáo viên tiếng Anh ở TP. HCM, thành viên biên tập đặc san Tagalau,
tuyển tập sáng tác- sưu tầm- nghiên cứu Chăm do Inrasara sáng lập và chủ biên.
Thơ Jalau Anưk, theo Inrasara nhận xét là “ngồn ngộn hiện thực, có không khí
hậu hiện đại, nhưng vẫn nồng đậm bản sắc Chăm”. Trong bài thơ Dưới
vòm trời là những mái nhà, anh thúc giục mời gọi những thân phận
lam lũ, quanh quẩn làng quê:
…Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn
sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoải đêm dài là rực
phố đông vui
phố cũng thích Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa
Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe dalikal
bà kể…
Với Bá Minh Trí, tác giả sinh năm 1979 tại Ninh Thuận
từng đoạt giải thưởng thơ Bút Mới lần thứ 5 năm 2005, do báo Tuổi
Trẻ tổ chức. Hiện anh
là giám đốc Công Ty TNHH Bình Minh, chuyên doanh về các mặt hàng nông sản tại
Phan Rang. Anh tâm sự: “Làm doanh nhân là trách nhiệm với gia đình, vợ con, còn
làm thơ là trách nhiệm của mình với cộng đồng”. Trong bài thơ Triết
lý lá vàng, anh chiêm nghiệm cuộc đời, sau những tháng ngày xanh
tươi, căng trào nhựa sống, bên cạnh đó không nguôi day dứt một hiện trạng “vàng
vọt” tâm thức Chăm:
Cái cười ngoảnh lại và rớt
quanh làng
Người đi
Câu hát dở dang, điệu bwei
hrung* lỡ nhịp
Xalam xalam…
Từ bạt ngàn đồi núi
Từ hanh hao gió nổi
Bàn chân trần vất vả tuổi thơ
Trôi dạt
Núi có trơ và sông có bạt
Em quên bẵng và plei lạ lẫm
Vẫn mong một ngày về
Tạ ơn
Cái cười ngoảnh lại và rớt
quanh làng
Không lời tụng ca rình rangcủa
thầy paxeh
buồn vui bớ láng giềng
sao người còn múa hát
mai trở về
chắc vàng như lá cây
rơi
khi đã nhiệt tình xanh lặng lẽ.
Riêng Thông Minh Diễm, bút danh khác Diễm Sơn, tác giả
sinh năm 1978 tại Bình Thuận. Học hết cấp ba, gia đình khó khăn, không có điều
kiện học lên, anh thường trú quê nhà, tự học tiếng Chăm, mày mò nghiên cứu văn
hóa mẹ đẻ, báo chí đăng rải rác ở tạp chí Dân tộc, Dân tộc và phát triển… Thơ
anh chủ yếu xuất hiện ở đặc san Tagalau. Thơ anh không nhiều, nhưng bài nào
cũng đặc sắc, tinh tế. Trong bài thơ Người xóm cũ, thể hiện quan sát đầy trách nhiệm và
“lia” chiếc máy tâm hồn thi sĩ vào từng nhân vật, từng hiện tượng:
Người đàn bà đi ngược triền dốc
tay bưng li-i bám đầy bụi
bình thản người đàn bà cúi nhặt
phần thừa lại phân trâu sót khô
lấm lem đếm tuổi theo thời vụ
vừa lội qua một nhánh sông có
bãi đá
lau lách mỗi ngày đời…
Xưa kia nơi đây có một con suối
urangcòn nghe ia ru
đó là tiếng thì thào của dòng
nước…!
Người đàn bà khải ngộ
giữa bãi trắng lầm bầm lang kar
gỡ chiếc khăn mư-thâm
che dung nhan
che tì vết
ngồi nhớ
hồi dara…
Nhưng cánh cửa đền Ppo Dhat lúc
nào cũng đóng
lỗi hẹn một mùaCabbur
cũng chưa thấy một nhà trùng tu
nào ghé tới thăm
người đàn bà có một con đường
quanh queo
bàn chân vu vơ hoài mơ thiên sứ
chị gái Apsara bay đi tự lúc
nào?!
Nhìn thấy người đàn bà Xóm Cũ
đứng buồn.
Những gương mặt thơ trẻ Chăm vừa phác họa ở trên, chỉ là
những dòng định danh lược thuật ngắn củn, chắc chắn còn thiếu sót. Dân tộc Chăm
là dân tộc yêu văn chương. Tâm hồn Chăm là tâm hồn đầy tràn nghệ sĩ tính. Một
vài cái tên được nêu lên, chắc chắn không thấm tháp vào đâu, so với nền văn
chương nghệ thuật đã một thời rực rỡ. Nhưng họ, những cái tên vừa điểm danh ấy,
cũng kịp tạo nên một diện mạo thơ, một dòng chảy lạ đậm đà bản sắc. Ô hay, với
người làm công việc sáng tạo nói chung, đấy cũng là một sự tìm kiếm có khi vời
vợi, nhọc nhoài.
Không những thế, với một tâm thế
mới, cảm và nghĩ mới, họ đã thực sự kéo dài nền văn chương Chăm ra. Đồng thời
hãnh tiến đóng góp vào nền văn chương Việt Nam, những câu thơ, những bài thơ,
những tác phẩm thơ không trộn lẫn với ai.
Cuối cùng họ vẫn cứ là họ, những
tâm hồn Chăm lung linh thơ ca và tháo vát với những “ngữ cảnh” trần gian này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com