Bốn cứu cánh của đạo
sĩ Bà-la-môn & thơ
Văn hóa Champa là văn hóa đùa
vui
chịu chơi cả
trong đau khổ.
(Lễ Tẩy trần tháng Tư, NXB Hội Nhà văn, H., 2002)
Tôi biết Sài Gòn lần đầu qua trang
sách Phạm Công Thiện: Ý thức mới trong văn nghệ và
triết học. Năm đó tôi đúng mười lăm tuổi. Phạm Công Thiện môi giới
tôi lần mò tìm đến F.Nietzsche, M.Heidegger, W.Faulkner, Thiền,… Lang thang đất
nắng Phan Rang, tôi mơ tưởng ngày làm sinh viên sẽ mặc sức bay nhảy khám phá
thế giới bao la ngoài kia, sau hàng rào làng quê Chăm lặng lẽ, hiu hắt.
Nhưng không. Lịch sử đã khác. Và
cuộc đời tôi bẻ sang hướng khác.
Mãi mùa Hè năm 1999, khi cầm trên
tay tập Thơ tự do, lần thứ
hai tôi biết đến sinh hoạt chữ nghĩa Sài Gòn. Nguyễn Thị Minh Thái nói: – Bạn
cần đọc và làm quen những người này. Trước đó, không! Dù tôi đã qua bảy năm làm
dân thành phố. Tôi không nhu cầu đăng hay in thơ. Cả sau tập thơ đầu tay Tháp nắng (1996)
ra đời, tôi không nhu cầu quen biết giới văn nghệ. Nhóm thơ tự do hay tụ càphê
ở hẽm cạnh chung cư đường Cao Thắng hoặc quán Trống Đồng đường Lê Quý Đôn. Trần
Tiến Dũng, Nguyễn Quốc Chánh, Phạm Mạnh Hiên, Vũ Trọng Quang,… các tên tuổi
quen thuộc nhưng tôi chưa một lần giáp mặt.
Ngay tức thời, tôi nhập cuộc chơi
với họ. Và đi từ ngạc nhiên này sang khác.
Nguyễn Quốc Chánh, sau Đêm mặt trời mọc (1990)
– tình cờ tôi mua được từ hiệu sách cũ đường Nguyễn Chí Thanh – ngồn ngộn suy
tưởng soi rọi vào bề trái hiện tượng xã hội, đột ngột quay về Khí hậu đồ vật (1997)
hay Của căn cước ẩn dụ (2002) với bao ẩn dụ bí bức, để mãi ba
năm sau mới trở lại với cái chất đích thực của mình với Ê tao đây (2005),
khi nhận ra rằng: “Thật ngô nghê khi vừa muốn tự do vừa muốn cơ chế chuyên
chính cho phép. Tôi đã hơn hai lần ngu như vây. Và trớ trêu cả hai lần (tuy
nhọc nhằn) nhưng đều được phép”.
Hay Trần Tiến Dũng, sau hai lần
dừng lại ngưỡng siêu thực và chịu khép mình núp bóng cơ chế xuất bản nhà nước ở Khối động và Hiện, đột ngột in toàn tập Bầu trời lông gà lông vịt (2003) tận Tienve.org, sau đó là các bài thơ bề bộn bụi bặm cuộc
sống thực Sài Gòn, với sức mang chứa và tinh thần phản kháng mang tính xã hội
ngày càng quyết liệt hơn.
Tôi, hoàn toàn khác – gần như đi
theo chiều ngược lại. Nên, dù mươi năm qua rất muốn viết về sự phát triển tinh
thần của họ, tôi mãi lưỡng lự. Cái khác, tôi nghĩ, bắt nguồn từ thẳm sâu tinh
thần văn hóa. Mà một khi chưa nắm được tinh thần văn hóa, nói đâu sai đó là cái
chắc! Chớ nghĩ dại: chúng ta tự do khỏi mọi “tập khí” văn hóa và ngôn ngữ ta
chịu đựng và sử dụng. Dù ta có quyết liệt từ chối nó, thậm chí tố giác hay miệt
thị nó.
Trần Tiến Dũng chẳng hạn, viết từ
dư hưởng văn hóa Đại Việt bị phủ bóng bởi tinh thần triết học Trung Hoa; trong
lúc tôi, sáng tác như đứa con của văn hóa Champa chịu tác động bởi tinh thần tư
tưởng Ấn Độ. Cách nghĩ có bao khác biệt, cả lối làm thơ và thái độ với thơ ca.
Dân tộc Chăm hoàn toàn không biết
đến khái niệm: tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ của Khổng Mạnh.
Không phải họ không có. Họ có, nhưng khác!
*
“Năm đó tôi đúng 22 tuổi, cũng là năm ông bỏ làng ra đi. Tôi hiểu môn võ yoga
kia thất truyền ngay bước chân đầu tiên của ông bước khỏi làng Chakleng quá ư
lắm sự này. Cùng ra đi với ông là hòm gỗ chất đầy bản chép tay cổ gồm mấy chục
bài phù chú dài riêng ông có, hình vẽ các thế võ, bài chữa bệnh bằng lối đọc
mẫu tự từ dưới ngược lên, tên và tính cách (không kê tiểu sử) các võ sư thuộc
môn phái, từ vựng thần bí hay kiêng kị, các bài thơ trời ơi, vân vân và vân
vân. Chúng ra đi không để lại dấu vết. Và vĩnh viễn…
Con người lí tưởng của Bà-la-môn là
đạo sĩ lánh đời, trốn đời và thoát khỏi đời khi đạt giác ngộ. Văn hóa Champa bú
mớm từ nguồn sữa tinh thần này nên bị đánh cho tan tác bởi văn hóa Đại Việt chủ
yếu hun đúc bằng tư tưởng Khổng Mạnh mà con người lí tưởng là kẻ sĩ dấn thân,
Đại trượng phu gánh vác việc đời hay ở bậc “thấp hơn” – Bồ tát của Phật giáo
Đại thừa nhập thế cứu độ chúng sinh khốn khổ. Các tri thức tinh túy nhất của
tài năng Chăm (tài năng thực thì luôn hiếm) không được phổ biến rộng trong quần
chúng mà chỉ truyền dạy cho rất ít người hay như Dhan Than, sống để lòng chết
mang lên giàn lửa đã đốt cháy thi thể còn săn chắc ông vào một trưa nắng năm
xưa cùng ít giọt nước mắt nuối tiếc của tên đồ đệ duy nhất là cái thằng tôi
trót phản bội lí tưởng ông bất đắc dĩ.
Nhưng đây chưa phải là hạt giống
Arhat cuối cùng. Ông chết, Chế Khan đã là một kẻ kế vị xứng đáng”.
(Chân dung cát, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, H., 2006)
Triết học Ấn Độ minh định rõ bốn
cứu cánh hay mục đích đời người. Cứu cánh đầu tiên: Artha có nghĩa là đại diện cho, thay thế cho, vì, nhằm vào, “là những sở
hữu vật chất… để chu toàn những nghĩa vụ cuộc sống”. Bạn bị ném vào đời, hoàn
toàn không do chọn lựa của bạn. Không ai hỏi ý kiến bạn trước: nơi chốn và ngày
tháng năm sinh. Bất ngờ có đó, bạn học cách chấp nhận nó, không thể chối bỏ.
Bạn cần bảo toàn sự có mặt ấy, bằng thấu hiểu đối tượng bạn theo đuổi, phương
tiện đạt đến nó nhằm thỏa mãn nhu cầu căn bản của cuộc sống bạn. Không thể
khác. Kinh tế, chính trị, tòa án, công sở,… nằm ở khu vực này.
Ở một bình diện khác, Kama hay dục, lòng ham muốn, “là sự khoái lạc và tình yêu
thương”, là cứu cánh thứ hai. Bạn học cách thỏa mãn lòng ham muốn [dục tính]
của bạn và người bạn tình. Bạn hãy biến chúng thành nghệ thuật, nghệ thuật yêu
đương. Cao hơn, bạn nâng nó lên thành kinh – kinh dục lạc.
Nhưng nếu chỉ có thế, khốn khổ cho
loài người biết bao: bạn chỉ là thú vật đơn thuần không hơn! Sống là sống trong
tương giao, với cộng đồng. Để tránh cho cộng đồng khỏi đổ vỡ, suy đồi, cứu cánh
thứ ba: Dharma, nghĩa là pháp có mặt. Đạo sĩ Bà-la-môn khép mình vào
khuôn khổ, tận tụy phụng sự công cuộc đó. Công cuộc gồm thâu mọi “bổn phận tôn
giáo và đạo đức” với vô số khế ước xã hội và nghi thức cần tuân thủ.
Nhưng như thế vẫn là chưa đủ, cả
“tam chúng” trivarga đó. Chúng chỉ là những “theo đuổi thế
gian” với bao triền phược, bổn phận với nghĩa vụ, trách nhiệm và gánh nặng. Ở chặng
cuối, đạo sĩ Bà-la-môn nỗ lực tự giải thoát để vươn đến cứu cánh tối hậu. Người
Ấn sử dụng các hạn từ Mokca, apavarga, nirvrtti,
và nivrtti để chỉ mục đích này. Chính tại đây,
triết học Ấn Độ ghi nhận những thành tựu oanh liệt nhất trong lịch sử tri thức
nhân loại.
Mokca, nghĩa là “buông, thả, trả tự do, phóng
thích; ra đi, từ bỏ, rời khỏi”; hay apavarga, là “ngăn chặn, tiêu diệt, xua
duổi; dứt bỏ, nhổ bật, bứt rời; hoặc nirvrtti, là “sự biến mất, sự hủy diệt, sự
nghỉ ngơi, sự thanh tịnh, sự hoàn tất, sự hoàn thành, sự giải phóng khỏi sự tồn
tại của trần gian”; và nivrtti là “sự ngừng lại, sự chấm dứt, sự biến mất; sự từ bỏ, sự chừa bỏ, sự
thoái vị; sự đình chỉ những hành vi hay cảm xúc thế tục; sự tĩnh lặng, sự cách
biệt với thế gian; sự nghỉ ngơi, niềm hạnh phúc”.
Ở tận cùng của hành trình, khi đã
tuyệt dứt mọi ảo tưởng, đạo sĩ Bà-la-môn là một thiện tri thức Kalyāṇamitra, hơn thế nữa – một người biết Paramārtha-vid.
(Xem: Heinrich Zimmer, Triết học Ấn Độ, một cách tiếp cận mới, Lưu Văn Hy
dịch, NXB Văn hóa – Thông tin, H., 2006)
Nhưng để đạt được bốn cứu cánh đó,
người Bà-la-môn cần trải nghiệm bốn giai đoạn cuộc đời. Ngay buổi đầu làm đời
môn đệ antevāsin, bạn tự buộc tuân thủ nguyên tắc: vâng lời và tuân phục. Sống
“dưới chân thầy”, và chỉ biết có thầy guru. Đó là giai đoạn tìm học đầy hứng
khởi. Truyện cổ Chăm:
Đi tìm học bán vợ
Một người nông dân hiền lành, có vợ
và đứa con trai mười hai tuổi. Đang sống rất yên ổn và hạnh phúc, bỗng một hôm
ông nẩy ý định đi tu. Ý tưởng nung nấu mãi để một năm sau ông quyết định tìm
đến một guru Bàlamôn nổi tiếng nhất vùng để học đạo. Vị sư nói:
– Dạy ngươi kinh sách thì ta lại
phải học thêm gấp hai lần ngươi. Ta đã già, không có của cải gì cả.
Không chần chừ, người nông dân bảo:
– Nhà con có một mẫu ruộng, con xin
hiến cho guru.
– Ta không có trâu để cày.
– Con có cặp trâu đã thuần.
– Ta cũng không có người chăn trâu.
– Con có đứa con trai khỏe mạnh,
người nông dân nói sau giây lát ngập ngừng.
– Ta sống cô đơn, không có ai lo
cơm nước.
– Con nguyện lo cho guru.
– Không, ta và ngươi dành tất cả
thời gian cho học tập và tu luyện.
– Nhà ngươi có vợ chứ? Vị sư hỏi
sau một hồi im lặng.
Người nông dân lưỡng lự giây lát,
cuối cùng ông nói dạ một tiếng vừa đủ cho người đối diện nghe.
Hôm sau, người nông dân đi qua nhà
vị sư Bàlamôn cùng với tất cả tài sản và hai người thân yêu của mình.
Một, hai rồi ba tháng, người học
trò chỉ được phân công chép một bản kinh duy nhất. Lần một, lần hai, ba… vị sư
Bàlamôn đều lắc đầu và bảo chép lại. Đến lần thứ bảy, guru nói:
– Được rồi, lòng con không còn bợn
bụi trần. Ta có thể truyền dạy cho con tinh hoa của giáo lý Bàlamôn.
Ba năm trôi qua. Sau một buổi thiền
định, vị sư nói với đồ đệ:
– Vụ gieo cuối cùng đã mãn, con có
thể cho cháu dắt trâu về.
Nửa năm sau, vị sư nói:
– Vụ gặt cuối cùng đã xong, bây giờ
phần mẫu ruộng lại thuộc về con.
Rồi sáu tháng sau, guru lại bảo:
– Bữa tiệc cuối cùng đã tàn, người
vợ của con có thể về nhà. Và cả con nữa, bài học cuối cùng đã dứt, con không
phải cần đến ta nữa.
– Thưa thầy, con xin ở lại suốt đời
phụng sự thầy.
– Không, con phải tự đi một mình.
Để sau này con còn phải làm thầy. Cả ta, ta cũng không cần đến con nữa.
Vị sư già nói xong, quay lưng bước
nhanh về phía núi.
*
Người học sẵn sàng trả giá đắt nhất
cho việc học của mình. Để sở hữu tri thức, họ dám hi sinh, cả cái tưởng như
không thể. Học, không phải mưu lợi. mà để biết. Đây là tinh thần thiện tri thức
đúng nghĩa. Học như thế, ta mới có thể đạt đến minh triết thật sự. Thầy, không
buộc trò nô lệ mình, nô lệ vật chất và nhất là, nô lệ tinh thần. Khi trò đã to
cẳng cồ vai praung pha praung bira,
hãy bỏ thầy mà đi. Đi một mình. Cả thầy phải đuổi trò đi, để trò dám và biết đi
một mình.
“Gậy mình mình vác, đường mình mình đi, giữa đồi núi trập
trùng”.
Giai đoạn môn đệ vừa kết thúc,
người đàn ông lao vào cuộc sống gia đình. Bạn là một chủ hộ grhastha, nai lưng gánh vác gia đình với đầy đủ trách
nhiệm của người chồng, người cha,… Do đó, dù Ấn Độ nổi tiếng hướng vọng cõi tâm
linh nhưng chớ mong họ tha thứ cho kẻ ăn bám, nếu kẻ ấy chưa qua nấc thang cuối
cùng của triết lí sống. Mãi khi công việc xã tắc đã xong, rũ bỏ mọi gánh nặng,
cắt đứt tất cả liên quan máu mủ ruột rà, bạn dũng mãnh bước vào giai đoạn thứ
ba: đi vào rừng vanaprastha.
Đây là giai đoạn thử thách tâm linh
khốc liệt nhất dành cho một đạo sĩ. Tôi hiểu nghề nghiệp kia không phải là tôi,
chức vụ và danh vị kia, tiếng tăm và tài sản kia, mặc cảm và kiêu hãnh kia,…
nghĩa là tất cả mọi mặt nạ nơi thế gian u tối mà tôi đang sở hữu kia không phải
là tôi. Giữa nhà grāma và rừng vana là
khoảng tối ngắn ngủn nhưng dài dằng dặc, đựng chứa bao nỗi nguy hiểm rình rập.
Sơ sẩy trong thoáng sát na, bạn có thể hủy hoại cả “vốn liếng” gầy dựng trước
đó. Một cuộc truy tìm hướng nội đầy gian nan, nhưng đạo sĩ Bà-la-môn phải dũng
mãnh lao vào. Nhảy qua và cắt phăng cây cầu dẫn về trần gian, để dấn mình trọn
vẹn vào giai đoạn cuối cùng: giai đoạn khất sĩ bhiksu. Làm kẻ lang thang vô gia cư, “phong phanh giữa
trời đất”!
Chính lúc đó, thi sĩ ra đời và thơ
ca có mặt.
Như Dhan Than hay Chế Khan xưa.
Hoặc như Trà Vigia, Hàm Bộ, Trần Wũ Khang của thế giới hiện đại. Họ là
Arhat-nghệ sĩ trong xã hội Chăm mang vẻ thanh bình bề ngoài nhưng bên trong
thẳm sâu đựng chứa nhiều biến động.
*
“Hành vi, cử chỉ, cuộc đời Dhan Than vừa làm xa lạ đồng thời lôi cuốn và gây
cho tôi nỗi hứng thú đau đớn. Không phải ở bí ẩn hay kì lạ đến quái lạ của nó
mà là ý hướng vô danh, vô danh đến không còn manh mún nào có mặt.
Khi hành vi, lối xử sự của ông bị
thế hệ đàn anh lứa chúng tôi những năm 60 đưa lên sân khấu nhà quê bỡn cợt (sự
vụ gây cho mẹ tôi không ít tủi hổ) hay khi Cao Xuân Hoang tự tuyên đồ đệ chân
truyền của ông qua khoa xem gò bàn tay hướng nghiệp, họ cũng không tí ti nào
hiểu ông. Cả khi vào mùa xuân năm 1979 ông bỏ ra miền Trung lang thang ăn xin
cho đến khi thân tàn ma dại trở về tháng 11 năm 1981 để chết vào cuối năm đó,
cũng không một ai hiểu ông. Chắc chắn đây là hiện tượng siêu cá biệt trong xã
hội Chăm hiện đại. Mẹ, các dì tôi đã khóc và tức tốc chạy tiền xe giục ba ông
anh họ tôi lục tìm ông khắp mọi xó xỉnh mấy tỉnh thành đến khi bắt gặp và cho
ông biết ý định thì bị ông cầm roi mây dài đến bảy sải đuổi chạy thấy ông bà.
Ăn mày! Đấy là khái niệm gây kinh hoàng,
nghĩ tới thôi cũng đủ khiến chế độ mẫu hệ Chăm tái mặt chứ đừng nói làm. Mà ông
lại là Thầy pháp cao đạo của một dòng họ lớn nhất làng. Tại sao? … Không ai
hiểu ông, mà chỉ lo cáo buộc ông ngông cuồng vô lối. Chính ngài giáo sư Trần
Hùng nhận định Chăm mang tinh thần ẩn cư, gần như khuynh hướng tự hủy. Tự hủy
khả năng mình, sự nghiệp và chính con người mình… Ngài giáo sư đã nói qua một
lần rồi, Việt ẩn cư là để chờ thời hay, sau khi cống hiến sức lực tài trí cho
cộng đồng để nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo, còn Chăm thì ẩn cư từ tổ kén,
khi mở mắt nhìn mặt trời đến lúc xã hội nuôi cho to cẳng cồ vai lại chực chạy
trốn xã hội.
Không công danh thà nát với cỏ
cây (Nguyễn Công Trứ).
Chăm thà nát với cỏ cây chứ không
cầu công danh. Lối nói khủng này dễ gây phản bác từ nhiều phía, bởi hôm nay
không hiếm kẻ vô tài bất tướng tranh giành địa vị như mảnh xương thừa được vứt
ra. Xung quanh và hàng ngày. Nhưng chúng ta đang nói về Chăm xịn, kẻ mang tinh
thần Chăm, Chăm tính. Hình tượng hơn: Chăm bị dính nước miếng rồng”.
(trích đoạn Chân dung Cát)
Trà Vigia. Sinh cùng năm, đồng
hương, cùng dòng họ, đồng môn, nhưng hơn nửa đời hư bạn thân nhất trần đời
quàng vai gác chân hắn muôn năm chê tôi. Thế rồi bỗng chốc vào buổi tối tháng 3
năm 2008 đẹp trời tại góc quán cóc nhà quê trong cơn ngà ngà men bia, hắn nổi
hứng khen tôi một tiếng để đời: “Mình nghĩ khuôn mặt văn hóa Champa hôm nay sẽ
ra sao, nếu trời không sinh ra Sara?”
Ba năm nằm Trại Thái Lan, tháng
6.1994, hắn thư cho tôi gởi gấp báo thể thao cho hắn xem tạm World Cup qua lời
bình. Cho đỡ buồn. Buồn quái gì chứ! Ba loại báo cả thảy. Mà cắt từng bài
photocopy thì hải quan Việt Nam có chịu đâu. Phải mua nguyên tờ, chỉ để cho hắn
xem mục thể thao. Cả tháng báo, với tiền phí gửi trên trời, đau như té trâu! Nhưng
tôi đã chiều được hắn. Trại sắp đóng cửa, ai không đủ tiêu chuẩn sang nước thứ
ba định cư sẽ bị trả lại. Tôi nhắn hắn: bồ về đi, cùng làm tạp chí Chăm với
mình. Hắn về và… nằm dài. Tôi thúc tới, vẫn không hề hấn gì. Tôi kéo hắn [và cả
Trầm Ngọc Lan] vào nằm lì nhà tôi thuê tại Tân Bình trọn tuần bao cơm, càphê,
bia bọt, chữ nghĩa hắn mới chịu vọt ra. Thế là mấy năm sau đó liên tù tì hắn
ném cho tôi bao nhiêu là thơ với truyện ngắn:
- Sara toàn quyền sử dụng!
Tội vậy chớ. Trầm Ngọc Lan hai mươi
năm trước hay Trần Wũ Khang mấy năm qua đều xử sự với tôi vậy cả – một giuộc.
Làm như tôi là thứ kho lưu trữ tuyệt tác [hay rác rưởi] họ không bằng! Đạo sĩ
Bà-la-môn không xem tác phẩm nghệ thuật như một thành quả phala để hưởng thụ,
danh hay lợi hoặc gì gì khác. Một bài thơ xảy ra như nó phải xảy ra. Nó đến và
ở lại với đời hay biến mất khỏi trần gian cũng do cơ duyên. Nó cần có mặt như
nó phải thế, đúng lúc, dẫu đó là giờ phút muộn màng. Chớ có khờ mà mang tâm thế
bồn chồn, chộn rộn với bèo nhèo, khi tuổi đời ta còn chưa kinh qua ba cứu cánh
“tam chúng”, nhất là khi ta tác thi chưa sạch nước cản!
Có những kẻ vĩ cuồng đến độ
Chưa mọc răng
khôn mà đã sợ đời quên
(Nguyễn Quốc Chánh, Đêm mặt trời mọc)
Nhưng tâm tính Sara có khác “ba
Tr.” kia đâu cơ chứ. Làm thơ từ thuở còn ngồi ghế Trung học, mãi tuổi tứ thập
tôi mới in tác phẩm đầu tay và chịu gởi thơ đăng báo. Cũng chỉ do cơ duyên mang
tên Nông Quốc Chấn. Vậy mà bọn họ không chừa trừ ai cứ nhè tôi mà đề cử chức
thủ kho!
Tôi đã chẳng từng mấy bận ném bỏ
hay mang cho bao nhiêu là sách quý, để cuộc lên đường được nhẹ nhõm sao? Cả
ngàn cuốn sách tôi tặng thư viện làng để bị mất tiêu. Rồi trăm cuốn đóng bìa
dày được thằng bạn ở Phước Nhơn biếu không cho loài mối đánh chén. Vân vân…
Chúng có được từ mồ hôi mồ kê tôi bỏ công ra cày thuê hơn năm trời. Cả hàng
đống bản viết tay văn bản Chăm tôi còng lưng ra chép suốt mùa Hè ở không sau
tháng Tư Bảy lăm nữa, tôi đã đem cho tất. Đến khi cần làm việc, thiếu tư liệu,
tôi phải làm lại từ đầu.
*
“Bất chợt anh đổi giọng.
– Đù mẹ, thật muốn điên cái đầu lên
được. Chả có lấy mống nào ra hồn để mà gửi gắm lí tưởng. Trọn ổ bọn chút tài
còm đổ xô đi làm chuyện trời ơi. Sao cái ông trời thiên vị không nhỏ vào tâm
linh Chăm lấy một giọt tế bào thực tế do thái hay khôn ngoan tàu khi nặn ra thứ
nòi giống này!? Chúng không biết, không thèm biết cái giá của chúng nữa. Cả mầy
cũng thế. Đù mẹ thằng Thuman nói mầy đồ hèn. Biết mà không dám. Chỉ cần ý tưởng
lớn đó sượt qua đầu thôi cũng đủ khiến mầy vãi ra quần. Thằng Saman bạn nối khố
mầy làng tao cũng thế. Ý tưởng Cộng đồng mở giá chót phải trăm ngàn USD chớ có
đùa. Hãy tưởng tượng chương trình đó mà kết hợp với Thủ đô trên Sao Cày của
Glơng Anak! Nhưng hắn có chịu cụ thể hoá nó đâu. Tư tưởng biết đi ấy hiện đang
đứng canh chòi dưa tận núi Chàbang! Chăm đúng là nòi phung phí. Phung phí ngu
xuẩn không Chúa, Phật nào thèm độ lượng cúi xuống chạy chữa!
Phá sản! Nát bét rồi.
Im lặng.
– Cả tao cũng chả hơn gì, mẹ khỉ.
Nhưng dù sao đi nữa cũng phải cố lần chót. Ba năm nữa không rục rịch gì tao
cũng chuồn, đi trước, như Chế Khan bày thế. Một lúc lâu:
– Mầy biết tao sẽ đi đâu không? Qua
Cambốt mà làm bộ trưởng giáo dục bên đó.
Tôi cười. Anh cười theo, mặt méo
như khỉ bóc phải cứt gà. Là sự vụ hiếm hoi lắm mới thấy xuất hiện trên khuôn
mặt luôn tràn đầy vẻ phởn chí của nhà đại cố vấn họ Cao”.
(trích đoạn Chân dung Cát)
Hơn năm ngồi giảng đường rồi quay
lưng với đại học; hai năm kế toán trưởng hợp tác xã rồi rời hợp tác xã; bốn năm
chui vào Ban biên soạn sách chữ Chăm để chối bỏ biên chế; sáu năm còng lưng
đánh vật với chữ nghĩa tại đại học sau đó bái bai đại học,… Tôi đã từng buông
bỏ, chối bỏ, cắt đứt, thả đi, phóng thích, ra đi, từ bỏ, rời khỏi, triệt tiêu,
xua đuổi, dứt bỏ, nhổ bật, bứt rời… như một đạo sĩ Bà-la-môn chính hiệu con nai
vàng.
Nhưng ngó qua ngó lại, đã không ai làm cả, buộc tôi phải ra tay bất đắc dĩ.
Như ta đứng nhìn kiêu hãnh xót
xa
Chính bản thân
ta trong viện bảo tàng
(Tô Thùy Yên)
Dường như trời sinh tay Trà Vigia
ra là để hành tôi. Nhưng dẫu sao cũng phải nhận rằng, Tagalau không
có Trà coi như mất đứt một nửa giá trị, nếu không nói là tắt khói padơm athak.
Chính điều này không ít bận làm khó tôi. Bài “Mĩ Sơn đường về” có giấy thưa lên
tận Trung ương, khiến Tuyển tập suýt tắt đài ngay số 2. Rồi truyện ngắn “Ăn
chữ” của hắn ở Tagalau 8 nữa, cũng bị hành lên hành xuống. Tất
tần tật tôi giơ đầu ra gánh chịu.
Tôi hiểu hắn, yêu hắn và cả… mê hắn. Từ Thái Lan trở về, hắn tiếp tục chương
trình kinh niên đói… theo đúng à la mode khất sĩ Bà-la-môn.
Chấm phá Trà Vigia
Không bình thường chút nào kẻ hai
lần mổ thận tại Chợ Rẫy với hai bận tận Sikhiu vẫn cứ chơi rượu gạo như chưa
hay chẳng có gì xảy ra
Không bình thường chút nào kẻ năm
ngày học tập cải tạo tại Việt Nam rồi bốn năm nằm trại Thái Lan vẫn cứ Phan
Rang đẹp, cuộc đời & tình yêu đẹp hát vào những đỉnh trời.
Không bình thường chút nào kẻ giữa
trận trường kì ăn độn cứ tìm cho ra gói Jet phả khói trầm tư về cõi hủy phá
& sáng tạo, hủy phá để sáng tạo, hủy phá @ sáng tạo, anh chàng Shiva thiên
kỉ xưa chịu chơi thế là cùng
Không bình thường chút nào kẻ đào
lên lấp lại cơ man lần vẫn ao đất đó không trồng hay nuôi thứ gì cả cho nắng
Phan Rang vắt cạn giọt mồ hôi cuối cùng, kẻ bày ra phong thái uống rượu cao
cường tiên sinh Lí Bạch sống lại cũng bái phục, kẻ tuyên ngôn người uống rượu
lọc bằng thận ta bằng trái tim không hề chịu cũ
Không bình thường chút nào kẻ đột
hứng làm chuyến Mĩ Sơn đường về tung bụi mù môi trường văn nghệ tỉnh lẻ đìu hiu
banh ngực trần mang cuộc đời vào cuộc chơi nhỏ & lớn, tối & sáng, vô
danh hay rền tiếng, kẻ xem nhẹ giải Hội Nhà văn Việt Nam với Nobel, Nhóm Mở
Miệng hay Bill Gates được/bị đặt ngang nhau, khinh thường đồng thời tôn thờ tất
cả đàn bà con gái
Không bình thường chút nào kẻ khả
năng ngày đẻ ba bài thơ dẫu không xu dính túi vẫn từ chối gửi đăng báo, kẻ vĩnh
viễn lãng phí tài năng, sức khỏe & cuộc đời thực của mình cho mục tiêu mơ
hồ nào đó
Cũng rất là bình thường…
Khác Trà Vigia, tôi thường xuyên bị
đặt trong tầm ca tụng của Trần Wũ Khang. Cái gì tôi làm với hắn cũng nhất. Tôi
gặp hắn lần đầu vào tối Trình diễn thời trang thổ cẩm Lega-Minh Hạnh tại Sài
Gòn. Đang nói chuyện với Hani để làm cái phỏng vấn (“Một phụ nữ Chăm thành đạt
nhờ thổ cẩm”, báo Thanh niên,
23.12.1995), thấy tôi đứng chơ vơ một mình, hắn trờ tới:
- Cừ lắm, cừ lắm! Hắn nắm chặt vai tôi bằng hai bàn tay thô ráp, lắc lắc. –
Chắc chắn sẽ tìm lại ông.
- Có kẻ muốn in mấy thứ ông viết
đó!
- Tùy ông muốn làm gì thì làm.
- Nhưng ông hãy viết khác mình đi…
- Làm như ông chưa từng đạp cứt
Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Heidegger…
Hắn gườm gườm tôi rồi khép nhẹ cánh
cửa phòng, biến. Tôi muốn chỉ cho hắn thấy các đoạn hắn viết giống tôi, cả các
bạn thơ trẻ [và không trẻ] đụng hàng Inrasara. Tôi bảo bạn trẻ khi họ đưa bản
thảo nhờ tôi xem giúp: hãy loại bỏ Sara ra, thơ bạn sẽ khác hẳn.
Nhưng hắn đã không có đó rồi. Lạ!
Khang với Trà tính khí hệt nhau, nhưng cả hai chưa bao giờ biết nhau. Tôi nghĩ,
ví họ có gặp, xung đột chắc khó tránh. Kinh nghiệm dạy tôi thế, dù họ có là đạo
sĩ Bà-la-môn. Tôi thì khác: chịu đựng được tất! Hãy làm công việc của mình đi,
còn thì – mặc xác họ. Tâm tính với cá tính.
Đạp cứt jwak aih hay ăn nước miếng
nhau bbơng ia pabah gơp, tôi nghĩ thành ngữ Chăm này rất ứng với tôi và Trà
Vigia. Hắn viết “Mĩ Sơn đường về” sau chuyến hành hương tập thể cùng bà con
vượt cả ngàn cây số đến Thánh địa Mĩ Sơn; cùng thời gian, tôi viết bài thơ
“Hành hương về bên kia đêm tối” in trong Lễ tẩy trần tháng Tư. Truyện ngắn và
bài thơ trùng tên “Ăn chữ”, chúng tôi sáng tác gần như cùng ngày giờ!
Lạ vậy chớ!
Tất cả họ là đạo sĩ Bà-la-môn chân
tính, nhưng chưa bao giờ ngồi lại trà đạo, dẫu chỉ một lần. Tôi như thể dấu
gạch nối, cũng không kịp nối liền họ, trước khi họ luân lạc vô định. Trà với
Khang thì khỏi nói rồi, ngay Hàm Bộ – guru của tôi, Trà có quen biết nhưng vẫn
chưa có cơ duyên “ngồi lại”.
Không như Trà Vigia, với tôi hay
than thở nỗi văn chương triết lí, Hàm Bộ anh họ, câu chuyện chúng tôi tuyệt
không liên can đến chữ nghĩa. Công việc làm ăn, chuyện ruộng nương, cây trồng
hay con giống, võ thuật với yoga,… tất tần tật, ngoài văn chương. Từ vào Sài
Gòn làm việc, tôi hiếm có dịp ghé thăm anh. Một lần, anh bảo:
- Klu làm việc với Ywơn có quan hệ
khác, cần giữ quan hệ, ít ghé anh là chuyện thường… nhưng thế nào rồi anh cũng
vào Baigaur thăm nhà chú nó…
Và anh đã vào Baigaur thiệt. Nhưng
không phải qua nhà tôi mà được chở thẳng bệnh viện trên chiếc xe cấp cứu. Anh
nghèo, quá nghèo mà phải gồng gánh gia đình bảy miệng ăn nheo nhóc, rẫy núi anh
em hay lên luyện võ mấy năm khan nước không thu hoạch được gì, anh chuyển sang
học thú y. Suôn sẻ được vài tháng, tưởng yên, đột ngột một sáng, rất sớm, anh
một mình vào chuồng bò tiêm ngừa thì gặp nạn. Anh bị dính đòn sừng bò ngay đốt
xương sống thứ ba. Nghe tin, tôi hối hả đạp xe vào bệnh viện Chợ Rẫy.
- Anh không chết được – tôi nói –
trời không thể bất công với anh như thế. Định mệnh không thể bất công với Chăm
như thế!
Lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn
thấy nước mắt chảy vào trong. Nước mắt tôi hay nước mắt Hàm Bộ, khi anh nhìn
tôi, không lời? Nó như một dòng sông câm lặng, cuốn trôi linh hồn tôi chìm vào
một miền xa tít. Tôi quay mặt đi, bước nhanh ra khỏi phòng cấp cứu. Tối hôm đó,
anh tắt thở. Không ngờ ngày anh bị nạn rơi đúng vào sinh nhật tôi. Triệu trẫm
nào đây?
Một đạo sĩ Bà-la-môn đã mất, một Vivekananda Chăm vừa chấm dứt hành trình dang
dở. Hàm Bộ chưa viết bài thơ nào, chưa để lại gì trên mặt đất đau thương này.
Anh sống mà không để lại dấu vết.
CHUYỆN NGƯỜI ĐỜI THƯỜNG
Chuyện3. Hàm Bộ – giấc mơ triển
hạn
Giấc mơ bị giam cầm từ rất sớm
dẫu bé con
Đã chết những dấu chân
dấu chân vẫn con đường mòn ấy
từ làng lên đồi và ngược trở về
làm quen thuộc hơi gió
đã chết cơn mưa đầu đời
chết
câu thơ chưa kịp khai sinh
chết
những khoanh rừng
Với ngọn gió, ngọn đồi quen thuộc
với khoảng rỗng trần gian nơi ý tưởng chưa đầy tràn
anh ở lại
với hơi thở và hơi thơ câm nín
với giấc mơ triển hạn và
cuộc sống mãi mãi làm triển hạn
Khi hơi thở cuối cùng đã hết hạn
chờ đợi
anh đi
Ở lại
dấu chân bị xóa
tên sông đã chết
lang thang những câu thơ trì hoãn.
Thơ – theo cái nhìn Việt Nam luôn
đi kèm với thơ thẩn, thơ mộng, thơ ngây, nên thơ,… Nghĩa là nó mơ hồ và đèm
đẹp, nó dễ thương và vô tội, nó ít trí tuệ và cư trú sát sườn bản năng nên, làm
thơ ở Việt nam là rất phụ, bất cứ ai cũng có thể làm được (ra ngõ gặp nhà thơ
là vậy). Và, hầu hết các nhà nho qua trường thi đều học làm thơ, sau đó đều
sáng tác thơ, vịnh thơ, thù tạc với thơ, ứng đối bằng thơ. Người ta có thể dùng
thơ vào mọi việc: cưới vợ được có khi nhờ thơ hay, đối giỏi, nhanh nhẩu và nhặm
lẹ. Vân vân… Nên ở Việt Nam, rất ít hay hầu như không có nhà thơ chuyên nghiệp.
Nguyễn Du kết Truyện Kiều: “Mua vui
cũng được một vài trống canh”. Nguyễn Huy Tự về già đã nhận sai lầm khi sáng
tác Hoa Tiên truyện! Ta tự coi mình “không phải là người” (Chế Lan Viên), kẻ
“sinh nhầm thế kỉ” (Vũ Hoàng Chương), hay một sinh thể “ru với gió, mơ theo
trăng” (Xuân Diệu). Nói chung lập dị nên, không thể hòa đồng với người, với
đời! Vì thơ, ta làm của nợ cho gia đình, ăn nhờ sự tần tảo của bà vợ (Trần Tú
Xương), hay hút xách tạo gánh nặng xã hội. Dẫu truyền thống cha ông có cảnh
giác “lập thân tối hạ thị văn chương”, nhưng hôm nay, không ít nhà thơ biến thơ
ca và chữ nghĩa thành một thứ cầu vượt, một phương tiện để đạt mục đích cụ thể
nào đó. Nói theo tinh thần triết học Ấn Độ, từ cõi tinh thần và tâm linh, ta
làm cuộc đi giật lùi về cứu cánh “tam chúng” tệ hại và tai hại.
Trong khi đó ở phương Tây, chữ “văn
chương” đều có nguồn gốc chung là “chữ” littera. Nhà văn là kẻ đọc nhiều, quan
trọng hơn: kẻ lao động trên con chữ, xem chữ là mục đích tối hậu. Từ đó, họ đòi
hỏi rất cao ở người viết trong lao động trên con chữ. Thơ, bắt rễ từ chữ
“poiesis” trong tiếng Hi Lạp, vốn hàm nghĩa nguyên động lực của sự sáng tạo.
Nhà thơ gắn liền với tri thức và kĩ thuật tinh luyện chuyên biệt trong phạm vi
ngôn từ.
Truyền thống Ấn Độ còn đòi hỏi thi
sĩ tôi luyện ở một cấp cao hơn nữa. Kinh Bhagavad-Gita cho rằng: đấng tối cao đầu tiên là thi
sĩ. Nhà thơ là hiện thân của tiên tri thấu thị, kẻ thông tuệ. Muốn thành nhà thơ,
người làm thơ phải trải qua sáu bậc tôi luyện:
– Svabhava: cảm tính thuộc bản
năng.
– Carana: cảm tính hướng thượng.
– Abhyasa: sự tinh luyện về sử dụng
nghệ thuật ngôn từ.
– Yoga: tham thiền nhập định để đạt
đến hòa hợp với Thượng đế.
– Adrsta: sự kế thừa tài năng từ
tiền kiếp.
– Visistopahita: ân sủng đặc biệt
được làm chủ tài năng của người thông tuệ và tiên tri phi thường (nói như ngôn
ngữ hiện đại: được ân sủng đứng trên vai các người khổng lồ). Do đó, nhà thơ Ấn
Độ ngày xưa bị/tự buộc tuân thủ kỉ luật rất khắc khe về giờ giấc sinh hoạt cũng
như các lề luật đối xử với cuộc sống, chữ nghĩa. (Xem thêm: Hoàng Ngọc-Tuấn /
Nguyễn Hưng Quốc, “Viết, giữa truyền thống và nhu cầu sáng tạo”, Văn học Việt Nam từ điểm nhìn (h) iện đại, NXB Văn
nghệ, 2000).
Chăm, tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, ít
nhiều ảnh hưởng nền nếp ấy. Cộng đồng Chăm những năm năm mươi trở về trước, nhà
thơ thực sự là kẻ được trọng vọng như thể một tiên tri thấu thị. Thế hệ ấy,
người Chăm từ “trí thức” cho đến nông dân, không ai là không biết chữ. Dù Chăm
tổ chức dạy kiến thức theo lối bí truyền: học nhóm với số lượng rất hạn chế, có
khi chỉ một thầy một trò, khá bất tiện. Thế kỉ thứ XI, các sứ giả Tàu thử du
nhập lối tổ chức theo trường quy Trung Hoa vào Champa, nhưng thất bại. Quan
niệm về kiến thức của Chăm hoàn toàn khác: kiến thức không phải thứ mang chia
sẻ đồng đều. Học “nhóm” như vậy, nhưng thế hệ chú bác làng Caklaing quê tôi,
tuyệt không có kẻ mù chữ… mẹ đẻ, như đa số trí thức Chăm hôm nay! Phần lớn họ
được đào tạo để có khả năng chiếm lĩnh tri thức khá căn bản. Nên, một nông dân
chân đất vẫn có thể tiếp nhận các tác phẩm kinh điển đầy tính triết lí và khó
hiểu như: Pauh Catwai, Hatai Paran,…
không chút trở ngại.
Cha tôi, nông dân rặt, sau buổi cày
nhọc mệt, vẫn có thể nằm lên gối cỏ, đọc ngâm Akayet Dewa Mưno.
Các bác nông dân, trong những tối lễ lạc, thường xuyên mang sách cổ nhân ra
thảo luận từng chữ, từng câu. Họ xem tác giả Ariya Glơng Anak như kẻ thoát trần một gót, các lời lẽ
trong thi phẩm như lời thần thánh truyền lại.Ariya Glơng Anak [và
toàn bộ tác phẩm trong nền văn học viết Chăm] không có tác giả, Chăm đơn giản
gọi nó: Ông Glơng Anak! Kẻ sáng
tạo đã sang bờ bên kia và nói vọng lại. Nói rồi bỏ đi, không ngoảnh lại. Không
cầu tuổi tên, bất cần lợi lộc từ tác phẩm mình.
Từ lò đào luyện chữ (giai đoạn dưới
chơn thầy) sang lò luyện tội cuộc đời (giai đoạn chủ hộ) đến giai đoạn khất sĩ
bhiksu làm kẻ lang thang “phong phanh giữa trời đất”, là cuộc hành trình chiến
đấu dài dặc, cực nhọc để đi đến chiến thắng tối hậu. Krishnamurti đã như thế
như thế. Khi ở ngưỡng tứ thập, ông đã phủi tay từ bỏ danh vị “Phật Di Lặc tái
sinh” được người đời gán cho mà ông mang vác mấy chục năm, chối bỏ hàng vạn mẫu
đất dễ biến ông thành vị đứng đầu một tôn giáo giàu sụ, rời bỏ chức vị giáo chủ
Thông Thiên học với hàng chục triệu tín đồ dưới tay,… Để lên đường du thuyết.
Chỉ với ít bộ quần áo vài cuốn sách.
Nhưng tuổi trẻ Chăm hiện này hành
xử thế nào?
Họ có còn giữ “truyền thống” cốt
cách kia? Như Dhan Than, Mưdwơn Jiaw xưa hoặc Hàm Bộ, Trà Vigia,… đã và đang?
Đây là một câu hỏi lớn. Hay họ toan “học đòi” Sara lưu lại thật nhiều dấu vết?
Họ có hiểu “hiện tượng Inrasara” chỉ là một tai nạn văn hóa? Hắn cư ngụ trên
đường biên đầy tạm thời. Như kẻ tình nguyện hoặc bị đẩy ở lại hay, – khác đi:
một mắc kẹt. Nhưng luôn ngóng vọng, khao khát, nhớ nhung bờ bên kia.
Nhớ nhung nhưng vẫn vui vẻ ở lại.
“Đi – như là ở lại”.
Tôi đã “ở lại” như thế trong cặm
cụi phục dựng “Tủ sách văn học Chăm” mười tập, qua hành trình gập ghềnh khổ ải
chín số Tagalau, với điều tra-tường trình “Vấn đề văn hóa – xã hội Chăm hôm nay
& Tương lai cộng đồng”, và cộm hơn – trong “Vụ Kiều Minh Vũ”. Cuộc này, tôi
là kẻ duy nhất lên tiếng, có lẽ. Bốn bài liên tục. Rạch ròi và kịp thời. Sự vụ
khiến ông anh Phutra Noroya kính mến của tôi nhắc: “Anh nghĩ em nên tập trung
vào nghiên cứu văn hóa Chăm mình đi, ngoài kia xã hội rối rắm lắm, anh e em
không kham nổi đâu”. Hay ý kiến bà con từ quê: “Tại sao người như Sara trong
Chăm thì quá ít; quá ít này lại không chịu “phấn đấu” lên cao hơn để có thể
giúp đỡ bà con hiệu quả hơn?”
Một khuyên răn thiện ý hay “tại
sao” đầy ưu tư này đã không nhận được phản hồi. Không thể có. Bởi, khi thành
“người biết”, đạo sĩ Bà-la-môn đã sang bờ bên kia. Trở lại cứu cánh “tam
chúng”, chẳng những hắn không ơn ích gì cho cộng đồng mà còn nguy hại cho chính
con đường hắn nữa. Các giai đoạn đó đã qua, thật sự đã qua.
Đấy chính là sự khác biệt cả vực
thẳm giữa triết lí Khổng Mạnh và tinh thần Ấn Độ giáo. Người quân tử bỏ cả đời
lo chuyện trị quốc-bình thiên hạ, tôi luyện ngày càng thâm áo, tinh vi hơn, do
đó – hiệu quả hơn. Đời ta không thành còn di chúc cho con cháu mấy đời sau kế
tục. Đạo sĩ Bà-la-môn thì – không! Không, không, và không. Ông đã phủi nợ trần
khi hoàn tất giai đoạn chủ hộ grhastha ở ngay đời mình! “Văn hóa Champa bú mớm
từ nguồn sữa tinh thần này nên bị đánh cho tan tác bởi văn hóa Đại Việt…”.
Inrasara, Trà Vigia, Trần Wũ
Khang,… cần trở lại học tập làm “đấng trượng phu” ư? Không, bởi chắc chắn, họ
sẽ là học trò kém! Đó là một thế kẹt văn hóa mang tính định mệnh.
Bạn trẻ Chăm, các bạn đang ở đâu,
làm gì hôm nay? Các bạn có đang rơi vào tâm thế của không ít người làm thơ, với
bao “nỗi hôm nay”?
Tôi đã cười méo miệng khi một bạn
thơ thân mến của tôi kể chuyện anh đã nộp 250 ngàn đồng cho năm bài thơ chọn vào
tập thơ tuyển ở trung ương, sau đó được chủ biên thông báo mỗi tác giả có quyền
mua hai mươi bản nữa để biếu bằng hữu yêu thơ. Trời đất, bạn làm cái quái quỷ
gì kia chớ!? Mới đầu tháng Tư này thôi, một bạn thơ đã lôi bài “Tháp nắng” vào
thi tuyển thế kỉ dày 800 trang in đẹp, phone kêu tôi tới nhận sách biếu kèm nỗi
nguyên văn “anh nhớ mang theo tiền mua năm quyển nhé, khéo hết” hai lần lặp
lại. Ơ hay! Tôi có coi “Tháp nắng” là tài sản mang danh vọng chi mô mà chư vị
tuyển lui tuyển tới đến mười lăm bận rồi còn réo tôi mua nó nữa. Tập thơ đầu
tay này đã hết từ khuya tôi còn không buồn tái bản nó nữa là.
Đạo sĩ Bà-la-môn khi đã rời bỏ rừng
sống đời khất sĩ, trút mọi gánh nặng hay thành quả sau lưng, nhẹ nhõm như mây
trời, làm cuộc phiêu lãng vô định và bất tận. Mãi mãi trên đường. Đường, có thể
là đường phố hay con đường điền dã hoặc lối đi trong rừng, thậm chí đường hàng
không như Krishnamurti đã – không vấn đề! Khi đạo sĩ Bà-la-môn mang máu thi sĩ,
hắn càng đi bạo hơn.
Thơ ca nẩy sinh và rớt lại trên con
đường vừa đi qua đó.
Chưa đặt một chân sang bờ bên kia,
chưa là người biết Paramārtha-vid mà đã xài chữ, đã vội vã “sáng tạo”,
bạn chỉ dừng lại ở kẻ tập tò làm vần. Triết học Ấn Độ hoài nghi ngôn ngữ, cả
thứ ngôn ngữ đã được nạo bỏ các thứ lớp sơn giả tạo, ý đồ. Viết ở bờ bên này,
chẳng những bạn làm bẩn tư tưởng thôi mà còn xả rác vào chính ngôn ngữ nữa.
Bước sang bờ bên kia, nếu bạn một
đi không ngoảnh lại, bạn không thể trở thành một nhà thơ chân tính. Hiểu māyā,
khuất phục māyā, vượt qua māyā, nhưng bạn vẫn
ở lại với māyā. Đấy là hành
động cao cường của một Bồ tát-nghệ sĩ Bodhisattva-artist!
Không sáng tác bằng tiếng dân tộc,
bạn không xứng đáng là nhà thơ, một nhà thơ mang cảm thức hậu hiện đại với châm
ngôn: Suy nghĩ toàn cầu – hành động địa phương. Nói một cách hình tượng: dù
phiêu du trên đường nhưng đạo sĩ vẫn ưu tư, lo lắng cho kẻ ở lại quê nhà. Glơng
Anak thuyết ưu tư tức phi ưu tư thị danh ưu tư!
Hãy hình dung trăm ý tưởng tài hoa
chịu làm vô danh cho tháp Chàm có mặt
hãy hình dung thêm vạn bàn tay sần chai vì nó, đã ẩn mình
thì có sá chi thơ anh cõi còm chiều ngày tất bật
hãy thả cho gió bạt chúng về mấy cõi hư vinh.
Thế nhưng…
Dù đã chạm mặt với cứu cánh cuối
cùng trong tinh thần văn hóa Chăm ngày nay chỉ còn là những mảnh vụn les ruines
vương vãi, tôi vẫn mang khát khao tìm biết. Biết – để tự giúp và giúp bạn bè
Chăm vượt qua hố hang nỗi người trong xã hội Việt Nam đầy bất trắc, rủi ro.
Thế hệ tôi rủi ro và may mắn đồng thời. May mắn bởi ngay từ tuổi tìm học, tôi
đã biết đến tên tuổi Heidegger, Faulkner trước khi “được đào tạo [dang dở] dưới
mái trường xã hội chủ nghĩa”; rủi ro: sau 1975, vừa khởi sự đi vào con đường tư
tưởng, tôi bị cắt đứt mọi đường dây liên hệ với thế giới chữ nghĩa bên ngoài.
Tôi toan an phận cóc ngồi góc mâm, sống đời học giả tận tụy. Thế rồi bất ngờ,
một bài viết của Hoàng Ngọc-Tuấn: “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại” trên tạp
chí Việt số 07.2000 tình cờ rơi vào tay tôi.
Thế là một lần nữa, qua đường dây
dẫn này, tôi làm cuộc phiêu lưu mới. Những M.Foucault, J-F.Lyotard, R.Barthes,
J.Derrida, G.Deleuse, J.Lacan,… trở lại, cùng tôi làm cuộc tượng thoại. Vui vẻ.
Cuộc sống luôn luôn có bất ngờ mới.
Sài Gòn, 10.04.2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com