Tổ tiên của những người Cham ở Việt Nam đã xây dựng
một trong những đế chế lớn ở Đông Nam Á.
Theo National Geographic bởi Adam Bray, 18-6/2014
Tình trạng căng thằng ở Biển Nam
Hải hồi tháng trước, khi Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu do chính phủ sở
hữu trong một khu vực mà Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền ở phía nam quần đảo
Hoàng Sa.
Những người biểu tình chống Trung
Quốc xông vào và đốt cháy các nhà máy Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc ở miền
nam Việt Nam. Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông, có đến 21 người
chết trong vụ hỗn loạn, và hơn một trăm người đã bị thương. Hàng ngàn công nhân
Trung Quốc đã trốn khỏi Việt Nam.
Các tranh chấp diễn ra ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa,
hầu như là nơi không có người ở, và ở khu vực trung tâm của Biển Đông,
nơi nảy sinh các yêu sách chồng chéo giữa Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan,
Malaysia, Brunei và Philippines.
Nhưng, tranh chấp giữa Việt Nam và
Trung Quốc thu hút sự chú ý nhiều nhất. Cả hai đều liên quan đến các mối quan
hệ lịch sử với các hòn đảo, đối với Trung Quốc thì có từ triều đại Hán (206 trước CN đến
năm 220 sau Công nguyên) , để chứng minh cho yêu sách của mình trong khu vực.
Trong khi đó, tại Việt Nam khoảng
160.000 người
dân tộc Cham, tộc người đã từng
thống trị Biển Đông trong hơn một thiên niên kỉ, lặng lẽ đứng bên lề cuộc xung
đột leo thang.
Hai thế kỷ sau khi quyền lực bị
giảm-sút-sau-đó đã chấm dứt do sự đàn áp tàn bạo của Hoàng đế Minh Mạng, với
người Cham họ vẫn còn cảnh giác với những tranh chấp như vậy, tình cảnh hiện
tại là một sự nhắc nhở về tầm quan trọng mang tính biểu tượng và kinh tế của
Biển Đông và về văn hoá Cham, một nền văn hóa từng giàu có bằng thương mại trên biển
Đông.
Vương Quốc Champa
Trong nhiều thế kỷ, biển Đông được
các nhà hàng hải trên khắp châu Á biết đến như là Biển Champa, được đặt tên
theo tên đế chế vĩ đại kiểm soát toàn bộ miền trung Việt Nam, từ biên giới phía
bắc của tỉnh Quảng Bình ngày nay cho đến gần biên giới phía Nam của tỉnh Bình
Thuận.
Vào thời kì đỉnh cao của đế chế Champa,
từ khoảng thế kỉ thứ 6 đến thế kỷ 15, các vương quốc khác nhau của Champa, đã được trị bởi các hoàng gia theo vùng, bao gồm cả
phần lớn phía đông của Campuchia và Lào.
Các đồ tạo tác lâu đời nhất của
nền văn minh Cham – gạch, đá sa thạch, và đồ gốm được tìm thấy ở Trà Kiều ở
tỉnh Quảng Nam – có từ thế kỉ thứ hai.
Một di sản Champa đáng chú ý là các
tháp Cham được làm bằng
gạch đỏ, tháp lâu đời nhất được tìm thấy vào thế kỉ thứ 7 và thứ 8. Thánh địa
Mỹ Sơn, gần Hội An, được bảo tồn như một di sản thế giới của UNESCO, có đến gần
70 công trình riêng biệt.
Các nhà khảo cổ đã xác định được
một số thành lũy Cham và khoảng 25 ngôi đền (mỗi điểm có số lượng tháp khác
nhau) vẫn còn nằm dọc theo bờ biển của Việt Nam. Các cuộc thăm dò gần đây cho
thấy hàng trăm điểm đổ nát có thể dẫn các con sông vào Tây Nguyên và xa hơn nữa đến phía đông
của Campuchia và Lào.
Những bằng chứng sâu rộng
Các vị tổ tiên nói tiếng
Malayo-Polynesian của người Cham được cho là đã đến Việt Nam bằng đường biển từ
Borneo. Hầu hết các học giả đều tin rằng người Cham là hậu duệ của Sa Huỳnh,
người đã chiếm cùng một khu vực từ khoảng 1000 TC. đến thế kỉ thứ hai sau CN,
khi văn hoá Cham bắt đầu phát triển.
Những di tích của Sa Huỳnh được
tìm thấy các nơi xa như Đài Loan, Philippines, và Malaysia, đã chỉ ra rằng người
dân đi thuyền, buôn bán và định cư xung quanh Biển Champapa.
Sa Huỳnh trang điểm cho người chết
bằng đá mã não, đá carnelian và hạt thủy tinh từ Ấn Độ và Iran, cũng như bằng
những hạt vàng và thủy tinh quý hiếm từ Địa Trung Hải - có thể tất cả đều được
giao dịch bằng đường biển - và chôn vùi những thân xác trong những chiếc bình
bằng đất sét lớn.
Những hoa tai lộng lẫy được chôn cất
mang phong cách gồm một thanh treo đầu động vật có sừng ở cả hai đầu. Hoa tai
thường được làm bằng thủy tinh, đá quý hoặc ngọc bích từ Đài Loan.
Các cuộc khai quật gần đây đã khám
phá ra rằng những bằng chứng về các di tích được chôn cất Sa Huỳnh (và di tích Cham)
không chỉ có ở các đảo chính của Việt Nam và các hòn đảo ngoài khơi như Phú Quý
mà còn nằm trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa – vùng bình địa trong khu vực tranh chấp ngày
nay.
Tầm
Ảnh Hưởng Của Champa
Người Cham từng có một mạng lưới thương mại khổng
lồ với các tuyến đường mở rộng đến đông bắc Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và về
phía nam đến Malaysia và Indonesia.
Sự giàu có của họ - vàng bạc, đá
quý, gia vị, trầm hương, động vật quý hiếm và nô lệ - đã nổi tiếng khắp vùng Ấn
Độ, Trung Đông, và thậm chí là vùng xa nhất của Bắc Phi.
Trong thời kì vàng son của Champa,
một nhà địa lí Hồi giáo đã viết rằng các hòn đảo này đã sản xuất ngà voi, long
não, hạt nhục đậu khấu, cây đinh hương, trầm hương, bạch quả, và các thứ khác.
Các vụ đắm tàu là bằng chứng về
thương mại giữa Champa và Philippines thông qua quần đảo Trường Sa. Một chiếc
tàu - xác tàu Pandanan, đã được tìm thấy trên đảo Palawan của Philippines -
được cho là đã rời bờ Biển Champa vào khoảng năm 1450 và 1470, mang những đồ
gốm màu xanh lục được làm từ vương quốc Vijaya của Cham.
Năm 1997, chính quyền Philippines
đã cứu một con tàu hàng trăm năm tuổi trên đảo Thitu thuộc Trường Sa chứa
khoảng một nghìn đồ chạm khắc bằng đá granit dường như là có từ các địa điểm không rõ của
Champa.
Nhiều hòn đảo sinh sống ở phía tây
của Biển Champa cổ đã tạo các cộng đồng Cham. Các tàn tích tháp Cham, đồ gốm,
đồ trang sức, gạch đã được tìm thấy ở Phú Quý. Người dân trong vùng ngày nay,
mặc dù được coi là người dân tộc thiểu số Việt Nam, nói một phương ngữ khác với
người miền Nam, và nghề thủ công và văn hoá của họ lại giống người Cham hơn
người Việt Nam.
Xa hơn về phía bắc, các hòn đảo Lý
Sơn và Cham cũng là những vệ tinh lớn của Cham.
Sự Pha Trộn Niềm Tin
Người Cham bắt đầu tiếp thu Ấn Độ
giáo từ sớm, có khả năng đã được chuyển
đổi bởi các thương gia Ấn Độ, và pha trộn nó với niềm tin truyền thống của họ.
Hindu Cham được gọi là Balamôn.
Trước khi kết thúc thiên niên kỉ
đầu tiên, các thương gia Hồi giáo đã giới thiệu Hồi giáo, và giờ người Hồi giáo Cham được biết đến
với tên gọi người Bani (chỉ người Cham theo Đạo Hồi).
Ngay từ năm 986, các tài liệu của
Trung Quốc đã đề cập đến các cộng đồng trên đảo Hải Nam gồm những người Hồi
giáo Cham, hậu duệ của họ ngày nay là người Utsul.
Ngoài các hoạt động Hồi giáo và
Hindu riêng biệt, người Balamon
và Bani đều thờ cúng tổ tiên, các vị vua và các vị thần Cham. Người Bani, và một số người Balamôn, tiến hành lễ, một biến thể của lễ Ramadan, gọi
là Ramawan.
Những Tàn Phá Của Chiến Tranh
Đế chế Champa là đối thủ chính của
Đế quốc Khmer, ở Cam-pu-chia, và Đại Việt, một vương quốc Việt Nam ở phía bắc.
Cuộc xung đột của Champa với Đại Việt dường như đã bắt đầu vào cuối thế kỷ thứ
mười, khi người Việt Nam nam tiến vào Vương quốc Cham Vijaya (ngày nay là Quy Nhơn).
Những bức tượng chạm nổi ở một
ngôi đền ở Angkor miêu tả một trận đánh hải quân sử thi giữa Khmer và Champa
vào thế kỉ 12. Hải quân Cham không có đối thủ, nhưng trên mặt đất người Cham lại
phải chịu đựng nhiều thất bại tốn kém.
Cuộc xung đột về lãnh thổ tiếp tục
cho đến năm 1471, khi Vijaya cuối cùng bị thu giữ, và vào giữa những năm 1600, đế
chế Champa bị giảm sút thành vương quốc Panduranga (nay là Ninh Thuận và Bình
Thuận), nơi mà hầu hết con cháu Cham của Việt Nam sống ngày nay. Do đó, có một
cộng đồng Cham đã di cư sang Campuchia, Hải Nam,
Philippines và Malaysia.
Năm 1832, Hoàng đế Minh Mạng bắt
đầu đè bẹp các dấu tích cuối cùng của nền tự trị Cham và đóng dấu văn hóa, đốt
làng Cham và đất nông nghiệp và phá hủy các đền thờ cổ. Nhiều người Cham đã
trốn sang Cam-pu-chia, ngày nay nơi con cháu họ đã ở với số lượng hàng trăm ngàn.
Một
Nền Văn Hoá Đồ Sộ Nhưng Bị Đe Doạ
Bằng chứng vật lí về văn hoá Cham
ở Việt Nam đang biến mất. Tại tỉnh Bình Thuận và các nơi khác, các ngôi đền
Cham và ngôi mộ cổ bị xâm chiếm bởi các cánh đồng lúa, rừng rậm và các trang
trại nuôi tôm. Tại tỉnh Quảng Ngãi, các ngôi đền đã bị hư hỏng hoặc bị phá hủy
do khai thác sỏi.
Người Việt Nam tiếp tục xây dựng
các đền thờ Phật giáo trên những tàn tích của các di tích tôn giáo Cham và sử
dụng gạch từ các thành Cham để xây nhà của họ.
Các tộc người miền núi di chuyển
từ xa phía Bắc của Việt Nam hiện đang sống ở thủ đô cuối cùng của Champa, Sông
Lũy, bị đưa xuống trong quá trình thanh trừng của vua Minh Mang. Không có đề cập nào
đến Sông Lũy trong sách lịch sử Việt Nam, và nó bị bỏ qua trong các tài liệu du
lịch chính thức, mặc dù gần với khu nghỉ mát lớn nhất của nước này, ở Mũi Né.
Hội An là thành phố cảng nổi tiếng
nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, lịch sử phổ biến và những tờ thông tin về du lịch
ngày nay lại bỏ bê tới gốc rễ Cham của nó.
Người Cham nổi tiếng với hàng dệt
may, dệt bằng tay trên khung dệt. Vải của họ được xuất khẩu (và thường được bắt
chước), sau đó được chuyển thành hàng hoá địa phương và bán tại các thị trường
du lịch của các bộ lạc địa phương ở các thành phố như Louangphabang (Lào), Siem
Reap (Campuchia), Chiang Mai (Thái Lan) và, gần hơn ở Việt Nam, Sa Pa.
Sau khi Việt Nam chinh phục các vương
quốc Champa, họ thường chọn nhạc sĩ của Cham, phong cách của họ đã có ảnh hưởng
đáng kể đến nhã nhạc Việt Nam. Ngày nay, hầu hết các khu nghỉ dưỡng và nhà hàng
lớn đều có các nghệ sỹ Cham làm việc (mặc dù chỉ có hai gia đình còn lại, những
người tạo ra các nhạc cụ Cham truyền thống - trống bằng gỗ và nhạc cụ bằng gỗ
như kèn Clarinet).
Người Cham là một trong số ít
người dân tộc thiểu số ở Đông Dương đã phát triển hệ thống chữ viết riêng dựa trên tiếng Phạn.
Rất ít người Cham vẫn có thể đọc và viết được tiếng mẹ đẻ của mình, và ngôn ngữ
nói cũng có nguy cơ bị khai tử, bởi vì chính sách của chính phủ
yêu cầu sử dụng tiếng Việt trong trường học, thương mại và các hoạt động công
cộng.
Điều kiện sống của người Cham
thường thấp hơn những người ở các làng dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Những ngôi
nhà được làm bằng bùn với những vách đá sụp đổ là phổ biến, và hầu hết người Cham không có nước máy, huống hồ gì là nói đến điện lạnh. Điện thì
không liên tục.
Chính phủ Việt Nam không còn cho
phép người Cham chết mà để nằm trong nhà vài tuần trước khi chôn cất. Một số
người Cham tiến hành"chôn cất lần thứ hai", bao gồm việc khai quật xương cốt vào dịp tưởng niệm ngày chết của ai đó và làm
một bữa tiệc cho bạn bè, gia đình và hàng xóm bằng những lời cầu nguyện, nhạc
lớn và lễ nghi tôn giáo.
Những Sự Nhạy Cảm Chính Trị
Bằng chứng rõ ràng và lâu dài về
ảnh hưởng của Cham đối với Biển Đông là tại sao bây giờ Việt Nam lại không sử
dụng căn cứ về lịch
sử Champa để củng cố cho các yêu sách lãnh thổ của mình trong khu vực?
Mối quan hệ giữa chính quyền Hà
Nội và các dân tộc thiểu số rất nhạy cảm. Trong năm 2001 và 2004, các cuộc biểu
tình nhân quyền của tộc người miền núi dẫn đến tử hình và án tù chung thân. Một
thời gian sau đó, Tây Nguyên cấm những người nước ngoài.
Các cuộc biểu tình lẻ tẻ và bạo
loạn ở quy mô nhỏ hơn vẫn xảy ra, và các cáo buộc về vi phạm nhân quyền của
chính phủ vẫn phổ biến ở các khu vực thiểu số.
Mặc dù là công dân Việt Nam đầy
đủ, người Cham vẫn là những người bị chinh phục. Nếu họ tự đặt ra vấn đề chủ
quyền lịch sử của Champa đối với Biển Đông, từ đó sẽ đặt câu hỏi về quyền tự
trị bị mất của họ trong mảnh đất của mình, điều này có thể sẽ gây phiền hà cho
chính phủ Việt Nam.
Người Cham và cả chính phủ Việt Nam đều không muốn làm đảo lộn sự cân bằng
hiện tại.
Đôi nét về tác giả:
Adam
Bray đã đóng góp gần 40 cuốn sách về du lịch ở Đông Nam Á. Ông là cựu cư
dân Phan Thiết, Việt Nam, nơi ông học văn hoá và lịch sử Cham,, học
đọc và viết chữ Cham hiện đại. Anh đã tìm và khám phá nhiều di tích của
người Cham.
Link bài
viết:
Ánh Hiền dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com