Dịp Tết Nguyên Đán, người Chàm tha hương từ khắp xứ trở về; về với
Palei, về với mái nhà – Tết không phải là lễ hội mà họ quan tâm, trong dịp này
họ chỉ mang tư cách là khách đến viếng thăm và chúc tết những bạn bè người Kinh
mà họ quen biết qua học hành, làm ăn, công tác. Vào dịp này tôi dành chút thời
gian để tìm hiểu đời sống người Chàm Bàni. May là tôi gặp vài đứa bạn cũ ở
Palei Katuh (làng Tuấn Tú), quê hương của những người Chàm còn nhiều lễ nghi
cổ, hiếu khách. Đọng trong ký ức tôi về một Palei Katuh, một nơi có hình ảnh về
dải cát đỏ, vàng uốn lượn của đọng cát Nam Cương (đọng cát Nam Cương rộng
khoảng 800 ha, được vây bọc bởi bờ biển và cánh rừng thưa, cùng với bờ biển đã
gắn với nhiều lễ nghi người Chàm ở Palei Katuh, tạo sức hút của khách du lịch và
những nhiếp ảnh gia). Katuh cách thành phố Phan Rang khoảng 9 km hướng
Đông-Nam, thuộc xã An Hải, huyện Ninh Phước. Tôi không hiểu sao mình lại ít
hiểu biết về Palei chỉ cách quê hương Caklaing tôi khoảng 10 km – nếu không nói
gần như là xa lạ. Thời còn cắp sách thời cấp III, tôi chỉ có dịp ghé tắm bãi
biển ở nơi đây một lần, và lần hai là dịp nhà trường tổ chức cắm trại – Đó là
nơi tôi bàng hoàng về vẻ đẹp của đọng cát Nam Cương mà mãi về sau tôi mới biết
chút ít sự tích về nó. Những tích khiến cả kí ức của người dân quanh đó chỉ còn
lại những cảm giác mờ nhạt.
Hồi giáo sau khi xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ
VII, trở nên lớn mạnh khi vào Ba Tư, bành chướng qua những đất nước Đông Nam Á.
Thông qua thương mại những người truyền giáo đã xuất hiện ở vương quốc Champa
vào thế kỷ IX – và kể từ sau năm 1471 Vijaya thất thủ và biến thành tro bụi,
một phần giáo dân Champa mất niềm tin vào Bàlamôn giáo, và những điều kiện nội
tại khiến họ tin và theo Hồi giáo. Tới thế kỷ XVII tình hình đất nước khủng hoảng,
chính trị rối ren, bản đồ vương quốc Champa bị co teo về Panduranga bởi sự tàn
phá của chiến tranh. Trong nội bộ, những kẻ được gọi là quốc Đạo vẫn xem những
đám dân theo Hồi giáo là kẻ dị giáo, tà đạo. Họ gạt những kẻ ngoại đạo ra ngoài
rìa xã hội vì tội bước qua rào cản lễ giáo, và ước lệ của xã hội đương thời. Sự
mâu thuận, thù địch vẫn leo thang, nó không chỉ thể hiện qua chính trị, kinh
tế, đời sống lễ nghi mà cả trong văn chương như Ariya Um Mưrup, Ariya Cam-Bani,
Ariya Bani-Cam. Không chỉ riêng tình yêu đôi lứa mà ngay cả vấn đề ăn uống,
sinh hoạt – có khi lại là mầm của sự xáo trộn và chống đối lẫn nhau trong âm
thầm, dù sau này được Vua Pôramê hòa giải bằng triết luận “lưỡng thể hợp
nhất”.
Năm 1832 Champa xóa khỏi bản đồ thế giới, cuộc khởi binh
của Katip Sumat và Ja Thak Wa thất bại khiến những đám dân Chàm bị nhà Nguyễn
truy sát, trừ khử làm cho cơ cấu tổ chức cổ truyền của người Chăm bị phá vỡ.
Theo sự tích mà người già ở palei Katuh kể lại – tuh có nghĩa là
đổ về. Về mặt lễ Suk Yơng, theo hệ thống của bảy thánh đường Bàni ở Ninh Thuận,
lễ được tổ chức đầu tiên ở Palei Cauh Patih (làng Thành Tín), và kết thúc ở
Patuh. Xét về mặt lịch sử, trước kia Katuh là một cảng đánh bắt cá nhỏ, vì sự
truy sát của nhà Nguyễn từ giữa thế kỷ XIX, một phần lớn những người Chàm Bàni
tị nạn đổ về để trông chờ đoàn thuyền từ Mã Lai, Java về cứu, đọng cát Nam
Cương – người Chàm Katuh gọi là Dong, có nghĩa là cứu chuộc.
Họ thất vọng, di tản đi khắp Panduranga – cùng với Katuh tạo thành
bảy cứ điểm của thánh đường Bàni ở bảy Palei. Người Chàm gọi thánh đường
là “Sang mưgik”. Những người ở lại – tạo dựng bảy nóc nhà –
biểu trưng của bảy dòng họ đầu tiên ở Katuh. Từ thời Pháp Katuh có mấy lần di
dời về sau được người Pháp châm chước dùng sức người, sức trâu khai hoang khu
đầm lầy. Và chính sự kiện này cũng đọng trong ký ức những người già về sự tích
con trâu khai hoang.
Một dị bản của sự tích kể trong dân gian Chàm về Dong,
trước kia do thần núi và thần biển gây chiến. Vì tính kéo dài của cuộc chiến
tàn khốc, vì đời sống sinh linh Pô Yang phải đến giảng hoà. Một phần đọng cát
Trắng-Vàng thuộc về thần Biển, phần cồn cát Nâu-Đỏ thuộc về thần Núi lửa. Và
lằn ranh đó được giữ đến bây giờ. Dù gió Đông-Bắc hay gió Tây-Nam có thổi. Ở
đây, trước kia đầu năm Chàm lịch người Chàm Katuh có hành lễ vào nhưng về sau
không còn nữa.
Đọng cát Nam Cương - một góc nhìn |
Lễ Karơh và lễ Katat
Lễ Karơh (cấm phòng) và Katat (cắt qui đầu) diễn ra hai ngày, thứ
năm, thứ sáu trăng thượng tuần vào các tháng ba, tháng tám, tháng mười, tháng
mười một theo Chàm lịch. Nó được tổ chức cho nhiều cậu trai, cô gái một lúc. Lễ
không diễn ra ở thánh đường mà là ở nhà Pôlathi, một thành viên được chọn từ
một gia đình chuẩn mực trong Palei có xét gia phả từ thời ông bà, cha mẹ. Có
hai Pôlathì – một đại diễn cho bên Karơh và một đại diễn cho bên Katat. Trước
kia Karơh và Katat tổ chức cho những cô gái, chàng trai trên 14 tuổi, nhưng bây
giờ do sự xáo trộn trong xã hội đương đại về phim ảnh và thông tin mạng toàn
cầu nên nó được tổ chức cho cả những cô bé, chàng trai trẻ hơn có khi khoảng 7
– 8 tuổi, dù không là gì cả nhưng nó đã làm mai một đi ý nghĩa và giá trị ban
đầu lễ nghi của nó – những con người trưởng thành chuẩn bị bước vào Đam Khah
(hôn nhân). Những người mà sau này được palei chính thức công nhận là thành
viên, người hiểu biết và canh giữ phong tục, tập quán của palei, dân tộc. Palei
dựng hai Jang (nhà tạm) đối mặt nhau: Jang lớn ở phía thần thánh để hành lễ có
Pô Gru, thầy Imưm; Jang nhỏ ở phía tây cho các cô gái vào cầm mình có muk Buh
(bà dâng lễ), muk Khek (bà chúc) canh chừng trước đêm hành lễ. Trong đêm đầu,
Pô Gru, thầy Khatip, thầy Imưm đọc kinh cầu nguyện trong Jang lớn. Sáng hôm
sau, các cô gái mặc lễ phục nhiều lộng lẫy được hai bà hướng dẫn sang Jang lớn
làm lễ. Các cô gái vào lần lượt từng người. Pô Gru đặt vào miệng cô gái một hạt
muối, cắt một lọn tóc nhỏ trên đầu rồi cho uống nước. Chịu lễ xong, cô gái lại
trở về Jang nhỏ tiếp tục cầm mình. Khoảng mười giờ sáng, các cô lại trở ra, lần
này mặc áo dải trắng, lần lượt sang nhà lễ, lạy tạ ông Pô Gru và các thầy Imưm.
Pô Gru hoặc thầy Imưm sẽ đặt tên thánh cho các cô gái, chàng trai, còn ông
Khatip và Char chưa có quyền đặt tên. Trong dịp này, các cô gái sẽ được cha mẹ,
bạn bè, người thân tới tặng các loại của cải vật chất như đồ trang sức, quần
áo, tiền bạc, thậm chí cả trâu bò, ruộng đất. Những tặng vật ấy được coi như là
của cải hồi môn khi các cô cưới chồng về. Về phần Katat, tất cả chỉ là tượng
trưng, sau khi hành lễ xong – họ đi ra ngoài đường, vào những ngôi nhà kiếm gà
để đập, kiếm trứng để lấy về, việc đó như chiến tích của những người trưởng
thành. Sau khi tắm xong mới thôi. Ngoài ra, những người ngoại đạo nếu muốn lấy
vợ ở trong Palei này cũng có thể tiến hành lễ vào dịp này.
Pô Gru |
Anưk Katat |
Anưk Karơh |
Lễ Palikhah (Hôn Nhân)
Chỉ những người qua nghi lễ Karơh, Katat mới tiến đến hôn nhân
được. Qua sinh hoạt trong xã hội, những thanh niên thanh nữ quen biết, để ý
nhau. Họ ngỏ với gia đình, sau khi suy xét về dòng họ để thầm ưng thuận, theo
thông lễ các bước như lúc trước “Paluak Panôik” (dạm hỏi) của ông Binhujk (ông
mai, mối) chỉ âm thầm; sau đó mới là bước “Nao Pôik” (lễ hỏi) mới tiến hành
công khai, để chuẩn bị cho lễ cưới. Hai bước trên cần sự khôn khéo, tế nhỉ của
Ông Binhujk, bởi lẽ người đối với người Chàm, một người lập gia đình không chỉ
là giữ tính ích kỷ của riêng mình mà là tìm người ba (hay mẹ) cho con mình sau
này; tìm dâu (rể) cho ba mẹ; tìm cả thông gia với bên dòng họ. Nhưng khâu cuối
cùng vẫn có tính quyết định là “Takloh Panôik” (lễ đính hôn) – thường diễn ra
vào ban đêm thứ hai, thứ ba trước ngày cưới, đây cũng là lễ để nhà gái tạ ơn
ông Binhujk, và hai gia đình đưa ra ngày cưới.
Sáng sớm hành lễ cưới, ngoài rạp dựng lên để chuẩn bị đón tiếp
khách và hai họ, một Jang được dựng lên để hành lễ, những bà mẹ ở bên ngoài sắp
xếp những vật lễ cúng Yang. Tới giờ hành lễ, Pô Gru, theo sau là Pô Car vào
Jang để tiến hành lễ. Cái mâm cao và những vật lễ cần thiết được đưa vào ở phía
trước Pô Gru, bên trái là hai ngọn nến (biểu tượng sức sống của cặp vợ chồng) –
bên phải là một ngọn nến (biểu tượng cho sự sống còn trong mối quan hệ khi là
một tế bào của Palei, cộng đồng). Bên trong Jang có hai đứa trẻ, biểu trưng cho
đứa con của cặp vợ chồng. Hai vợ chồng vào vái lạy Pô Gru ba lần, sau đó vợ
tháo chiếc khăn dùng để vái lạy lui về phía sau chồng, chỉnh sửa chiếc khăn
trùm lên đầu che nửa mặt, trong khi người chồng tiến hành lễ khấn cầu, rửa tội
trước mặt Pô Gru, người vợ ở phía sau níu áo chồng bằng cánh tay phải. Sau
khi ngưới chồng rửa mặt bằng nước thánh, những bà già ở bên ngoài cầu nguyện
theo tín hiệu của Pô Gru. Ba lần như thế, Pô Gru cuộn lại hai ngọn nến, tắt.
Hai vợ chồng tiến vào nhà theo chỉ dẫn của Pô Gru, bắt đầu bước lên bậc thanh
để vào nhà vợ, lễ vẫn tiến hành ở trong nhà với những khấn cầu, lời hứa thề của
cặp vợ chồng. Xong phần lễ, cưới xin về hình thức, người Chàm Bàni hay Bàlamôn
cũng gần giống người Kinh.
Tóm lại, chỉ có hôn nhân mới đánh dấu sự trưởng thành thực sự của
một tín đồ Bàni. Chỉ qua hôn nhân họ mới hoàn thành tiếp nghi lễ vòng đời để về
với Muk Kei (tổ tiên).
Lời Kết:
Địa hình Katuh bất lợi rất nhiều so với những Palei Chàm khác. Vì
là tận cùng của hệ thống thủy lợi nên vào mùa hạn đấy là nơi đầu tiên thiếu hụt
nước, còn vào mùa mưa nước dồn về làm lũ lụt, úng hoa màu, lúa nước trong thời
gian dài. Đời sống người dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, lúa nước và các
hoa màu – ngoài ra họ còn thu nhập phụ từ chăn nuôi, đánh bắt hải sản, hay làm
cán bộ nhà nước. Trước kia, bờ biển Katuh thường xuất hiện rùa biển lên bờ cát
sinh đẻ, dân ở đây thường săn bắt đem bán những khu vực ở Caklaing và
chợ Phan Rang nhưng về sau nhiều địa tôm và khu công nghiệp, khu giải trí mọc
lên nên không xuất hiện những chú rùa biển khổng lồ này nữa. Dân ở đây chỉ
những nhà nào khá giả mới nuôi tôm.
Trong những cuộc bộ hành, những lần café cốc ven đường, ngồi chung
với những người bạn với ly rượu tâm tình tôi mới hiểu biết thêm về con người,
sinh hoạt, lễ nghi của người dân ở đây. Tham dự mùa chay Ramưwan, chứng kiến lễ
Karơh, Palikhah,… Còn những lễ nghi về nhà cửa, lúa nước - ở đây cũng như ở
Palei Chàm hay các dân tộc khác. Trước thực trạng đô thị hóa, đất nông nghiệp
bị cuỗm mất – lễ cúng thần lúa, lễ đắp đập khai mương, lễ cúng thần sông, thần
biển để cho mùa màng tốt hơn nay mai một, thất lạc. Nghi lễ - cái bộc lộ hành
động nảy sinh trên cơ sở niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo – cái bộc lộ về quan
niệm sống con người của một dân tộc. Giới trẻ trong cuộc tiếp xúc với nền văn
minh hỗn tạp đương đại – không được hướng dẫn, giáo dục một cách đầy đủ, đã vô
tình đánh mất đi cái thiêng liêng của văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, do cơ chế
hành chính của nhà nước, và trước sức mạnh của nền kinh tế thị trường đã khiến
cấu trúc xã hội Palei Chàm truyền thống bị phá vỡ, đã biến mọi lễ nghi thành vở
kịch sân khấu, đã đẩy đưa người dân Chàm khỏi Palei. Hỏi, những đứa con của Palei Chàm đang ở đâu?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com