(Trà Vigia)
Cuộc đời là những chuyến đi xa và gần, trên con đường làng quê ra thị
thành hay lên rừng xuống biến rồi cũng trở về nhà nơi mình sinh ra. Nếu ai vì
một lý do nào đó không thể đi để nhìn để cảm thì coi như chưa sống. Ai đó ra đi
mà không trở về nơi chôn nhau cắt rốn thì kiếp đời này cũng chỉ phù du! Cuộc
sống này dài hay ngắn không thể đềm bằng tuổi tác thời gian, bầu trời này lớn
hay nhỏ cũng không thể đo bằng bước chân lang bạt không gian. Càng không thể
định đoạt giá trị sống của mỗi một người bằng thành công hay thất bại với bất
cứ tiêu chí nào. Quan trọng, chúng ta phải làm hết sức mình trong khả năng có
thể với cả tấm lòng. Sống cho mình và sống cho người, bởi không có người thì ta
sống với ai nơi trần gian hỗn mang bể khổ này!
Tôi đến palei Pajai vào một đêm trăng rằm tháng 7 Chăm lịch, nhằm ngày
18 tháng 10 năm 2013 dương lịch. Đích đến là lễ hội Katê Po Dam diễn ra hàng
năm với bao giai thoại huyền hoặc và lòng sùng tín của những đứa con Chăm tha
hương xa xứ níu bước chân về. Đất nắng Panduranga gồm 4 tiểu vùng Panrang
Kraung Parik Pajai, tuy không xa lắm về khoảng cách địa lý so với phương tiện
di chuyển hiện đại nhưng không thật gần khi lòng người cách trở. Thế mà, đây
mới chỉ là lần thứ ba tôi đặt chân đến miền đất này. Có lẽ tôi phải tự hỏi lòng
mình tại sao lại thế? Và những ai chưa một lần ghé thăm xứ sở của những bước
chân xa ngày nào, sẽ dặn lòng rằng một ngày nào đó có mặt trong dịp lễ hội hoặc
chỉ trong một ngày thường ta có dịp đi ngang. Lần đầu tiên tôi đến Pajai cách
đây khoảng 7 năm, cũng vào dịp Katê. Chúng tôi đi 4 người trên hai chiếc Honda,
có anh bạn giáo viên trường Dân tộc nội trú Phú Long làm hướng đạo nên đi cũng
nhiều nơi. Đi như cưỡi ngựa xem hoa nên chưa cảm nhận được gì, ngoài cuộc sống
của bà con mình còn nghèo quá. Dĩ nhiên Chàm ai cũng nghèo vì điều kiện mưu
sinh chỉ quẩn quanh nơi ruộng rẫy. không có cơ hội thoát nghèo để phát triển đi
lên có bài bản. Mức sống thấp dẫn đến dân trí thấp làm hạn chế tính cạnh tranh
và hội nhập giữa các vùng miền nếu so với Panrang Kraung Parik. Phải có ai đó
đi tiên phong, làm đầu tàu dẫn đường xứ Pajai đi lên bền vững căn cơ. Có lẽ đã
thấp thoáng vài tia hy vọng?!
Sáng ngày 19, tôi ngồi uống café ở ngã ba đầu làng bâng khuâng nhìn
người người đi lễ hội. Đàn ông Chăm bây giờ không còn mặc trang phục truyền
thống nữa cho dù trong một ngày lễ hội thiêng liêng trang trọng này. Đó là một
điều đáng tiếc, cần lưu tâm khôi phục lại bản sắc dân tộc tối thiểu về hình
thức mới mong bảo tồn cải tiến nội dung. Dù gì các phụ nữ Chăm vẫn duyên dáng
yểu điệu bộ áo dài truyền thống muôn thuở ngày nào, khăn quàng cổ đầu đội lễ
vật, vẻ mặt tươi cười hớn hở trên đôi chân háo hức tiến về đền Po Dam với bao
tin yêu thầm kín vào tương lai. Lòng tôi chợt ấm lên và những trang ariya bỗng
hiện về như ám ảnh cả một đời người nay bùng vỡ. Đâu là dấu chân của Cei Xah
Bin Bingu rong ruỗi khi xưa?! Cei nau mưin Jamơu / Karah di canơw pakrư kamei /
Dara Jamơw siam đei / Karah di tacei pakrư mư in. Như vẫn còn vang tiếng vó
ngựa lúc Cei đi săn: Cei nau patiap biak hai / Tanưh Pajai ba bwơl patiap. Lối
nào là con đường phiêu bạt giang hồ mà Po Hanim Pơr đã đi qua khi bất đắc chí:
Dara Jagram Gram ribak / Dara lo biak
dara Pajai / Dara Jagram Gram rak / Dara lo biak dara Jamơw. Bóng dáng hào hoa
hiên ngang của người xưa đã tan biến, giọng nói tiếng cười giòn tan của các cô
gái trẻ cũng tan biến nhường chỗ cho xô bồ bon chen hiện tại. Một lần đi là một
lần vĩnh biệt, tôi nhướng mắt nhìn về xa xa, có lẽ Bal La a ngoài kia đã trở
thành bình địa để bắt đầu một khúc bi ca. Xah Pakei tabiak di bal La a / Jauh
jiơng ya dwa jiơng bbwơn sa bauh / Hơc po kanai jiơng crauh / Jiơng bbwơn sa
bauh rai gơm gabbak. Hình ảnh người con gái xinh đẹp kiên trung khốn khổ ngày
nào như vẫn còn lởn vởn đâu đây trong cuộc tình oái ăm vĩnh cửu, tình nước và
tình người không đường ranh nào phân định. Người cương quyết ra đi, kẻ níu kéo
ở lại, chân người lẽo đẽo theo sau bước chân voi qua bao chặng đường đọa đày
trong nước mắt. Limưn tơl palei Yang Mơw / Pacei ngap di kuw vơr sang inư /
Khik sang baik inư saung amư / Kuw twei Xah Pakei nau bhum Canar. Phải chăng
cuộc tình xưa đã kết thúc hay vẫn còn kéo dài mãi đến hôm nay. Tôi đã nhiều lần
đứng trước biển nhìn ra khơi xa lần tìm chân trời cũ. Mới hôm nào ở Hòn Rơm Mũi
né, tôi cứ phân vân nhìn ngoái trước sau đoán định bến cảng nơi nàng công chúa
kiêu sa vẫy tay từ biệt cố quốc. Nai mai
mưng Mưka /Blauh takai nai dơh Harơk Kah Harơk Dhei Nai nau tơl Pajai/Mưng
lamngư Pajai nai jauh akauk sơng. Tất cả đã tan biến theo cánh buồm định
mệnh và tôi sực tỉnh để đối diện với thực tại. Tôi theo đoàn rước y trang từ
ngôi đền nhỏ trong làng ra ngoài đền lớn nơi thờ tự chính. Những cô thôn nữ,
thiếu nữ học sinh địa phương trong điệu múa quạt cổ truyền quen thuộc bay bổng
cùng âm vang tiếng trống Ginơng trầm hùng hòa lẫn kèn Xaranai lảnh lót tấu khúc
về nguồn. Thánh thần cùng về hòa với người trần làm một, Katê đã, đang và mãi
như thế trên quê hương Pajai vào đêm rằm tháng 7. Mặt trăng còn, Katê Po Dam
còn…
Điều đặc biệt là Katê Po Dam luôn diễn ra vào giữa tháng đúng vào ngày
rằm, trong khi ở những nơi khác lại diễn ra đúng ngày đầu tháng vào đêm không
trăng. Có nhiều lý giải khác nhau nhưng chưa xác định được, nếu không có cứ
liệu chắc chắn. Dù sao đây vẫn là nét đặc trưng có nhiều ưu thế, đầu tháng dự
Katê ở Panrang đến giữa tháng rủ nhau qua Pajai. Cuộc dâng lễ diễn ra cả ngày
và đêm dưới ánh điện sáng choang và ánh trăng lung linh mờ ảo! Chỉ tiếc có lễ
mà không có hội nên cuộc vui có phần nào đơn điệu nên không thu hút được nhiều
khách vãng lai, tạo sự kết nối cộng đồng rộng mở. Chuyện kể về Po Dam cũng thật
linh diệu! Vào năm 1909, khi người Pháp mở đường ray tàu hỏa ngang qua Pajai
thì vướng một hòn đá có hình dạng như Linga. Hòn đá tuy nhỏ nhưng không ai nâng
vác dời đi chỗ khác được nên phải báo cho quan Pháp đến xử lý. Ông quan đến với
thái độ khinh thị, lấy chân đạp vào hòn đá cho nó ngã lăn để thể hiện sức mạnh
và quyền uy. Không ngờ đá không suy suyễn gì mà người lại ngã ngửa ra hộc máu
mồm không gượng dậy nổi. Phần nào hiểu ít nhiều về huyền bí vùng đất lạ, ông
cho mời các trí thức địa phương đến hỏi ý kiến và tìm cách giải quyết. Ông
Tapah đứng đầu các vị tu sĩ thời ấy sắm sửa lễ vật đến cầu khấn tạ tội với thần
thì được bà bóng lên đồng phán là: Ta là
Po Dam ngự trị ở đây đã mấy trăm năm, không ai được quyền xâm phạm. Nay thời
thế đổi thay, muốn dời ta đi chỗ khác thì làm một quang gánh bằng dây thép thay
vì bằng mây hay tre. Đến nơi nào quang gánh đứt thì để ta xuống vì đó là chốn
mà ta muốn ở lại đời đời với dân làng. Khiêng đi đúng 108 bước thì quang gánh
đứt thật và đấy đúng là nơi ngôi đền Po Dam tọa lạc từ đó đến bây giờ. Sự kiện
lạ lùng ấy được quan Pháp báo cáo lên quan Công sứ và triều đình Huế, nên được
vua Khải Định năm thứ 4 có sắc phong Po Dam là Trung đẳng thần. Còn theo tài
liệu lịch sử thì Po Dam có tên là Trà Duyệt làm vua ở Sri Binưy được một năm
thì nhường ngôi cho em là Trà Toàn. Không hiểu vì lý do gì hay biến cố lịch sử
nào, Po Dam mang theo đoàn tùy tùng dời cư về phương nam xây dựng miền đất mới
bao gồm ba vùng Kraung Parik Pajai với nhiều công trình thủy nông vẫn còn giá
trị đến hôm nay. Nơi thờ tự chính vẫn là tháp Po Dam ở palei Paplôm thuộc huyện
Tuy Phong. Có lẽ vì chiến tranh nên Linga Po đã lưu lạc đến xứ Pajai này để dân
làng cúng tế, có được thần thành hoàng bảo hộ phù trợ. Nhưng Po cũng chẳng được
yên, vì dân làng quá nghèo không đủ điều kiện coi sóc thường xuyên nên bị kẻ
xấu phóng uế nhơ nhớp. Từ đó batuw Kut Po dần mất thiêng, không còn đủ sức răn
đe trừng phạt kẻ dám xúc phạm mình. Cuối cùng tượng Linga Po cũng biến mất
không tung tích và được phục chế một hòn đá mới. Đó là tệ nạn buôn thần bán
thánh, đánh cắp tượng cổ ở hầu hết các đền tháp Chăm mà người Chăm dù có đau
xót đến đâu cũng không thể tự mình bảo vệ được. Khốn thay!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com