Sarith Peou sinh năm 1962 tại
Campuchia, vượt biên qua Thái Lan năm 1982, sang Mỹ năm 1987, sống tại California , rồi Minnesota .
Peou đang nằm tù chung thân vì một vụ án mạng xảy ra năm 1996. Thất nghiệp, mất
nhà, mất vợ, thua tiền cờ bạc, Peou cầm một chiếc nhẫn hột xoàn tại một tiệm
vàng. Trong một cuộc xung đột, hắn chém vợ chồng chủ tiệm vàng chết. Trong tù,
Peou làm thơ, viết văn, chuyển sang đạo Chúa. Tài văn chương của Peou được phát
hiện bởi nhà thơ Ed Bok Lee, khi Lee dạy một khoá làm thơ trong tù. Cũng nhờ
Lee, Peou mới ra được một tập thơ, Corpse Watching (Tinfish 2007).
-----------------
Chế độ mới
Không nghi thức
tôn giáo.
Không biểu
tượng tôn giáo.
Không thầy bói.
Không thầy
lang.
Không kính
trọng người già.
Không cấp bậc
xã hội. Không tước vị.
Không giáo dục.
Không huấn luyện.
Không truờng
học. Không học vấn.
Không sách.
Không thư viện.
Không khoa học.
Không kỹ nghệ.
Không bút.
Không giấy.
Không tiền bạc.
Không đổi chác.
Không mua.
Không bán.
Không ăn xin.
Không bố thí.
Không ví. Không
bóp.
Không nhân
quyền. Không tự do.
Không toà án.
Không thẩm phán.
Không luật
pháp. Không luật sư.
Không thông
tin.
Không xe cộ
công cộng.
Không xe cộ tư
nhân.
Không đi lại.
Không thư từ.
Không mời mọc.
Không thăm viếng.
Không gửi fax.
Không điện thoại.
Không tụ họp.
Không tán gẫu.
Không hài hước.
Không cười.
Không nhạc.
Không nhảy múa.
Không yêu
đương. Không tán tỉnh.
Không làm tình.
Không kết đôi.
Không xuất tinh
trong giấc mơ.
Không thủ dâm.
Không nằm ngủ
trần truồng.
Không tắm biển,
tắm sông.
Không trần
truồng khi tắm rửa.
Không nhạc
tình. Không thư tình.
Không cảm tình.
Không kết hôn.
Không ly dị.
Không xích mích
vợ chồng. Không đánh lộn.
Không tục tĩu.
Không chửi thề.
Không giày.
Không xăng-đan.
Không bàn chải
đánh răng. Không dao cạo.
Không lược.
Không gương.
Không kem dưỡng
da. Không mỹ phẩm.
Không tóc dài.
Không bím tóc.
Không nữ trang.
Không xà phòng.
Không bột giặt. Không dầu gội đầu.
Không đan dệt.
Không thêu.
Không quần áo
màu mè, trừ màu đen.
Không thời
trang, chỉ một kiểu bà ba.
Không rượu.
Không rượu tăm nhựa cây cau.
Không hột quẹt
gas. Không thuốc lá.
Không cà phê
buổi sáng. Không trà buổi trưa.
Không ăn vặt.
Không tráng miệng.
Không ăn sáng
(thỉnh thoảng không ăn tối).
Không nhân từ.
Không tha thứ.
Không hối tiếc.
Không sám hối.
Không cơ hội
thứ hai. Không viện cớ.
Không phàn nàn.
Không khiếu nại.
Không giúp đỡ.
Không thiên vị.
Không kính đeo
mắt. Không nha khoa.
Không vácxin.
Không thuốc men.
Không nhà
thương. Không bác sĩ.
Không tật
nguyền. Không tệ nạn xã hội.
Không bệnh lao.
Không bệnh cùi.
Không diều.
Không bi. Không giây thung.
Không bánh.
Không kem que. Không kẹo.
Không chơi đùa.
Không đồ chơi.
Không bài hát
ru ngủ.
Không nghỉ
ngơi. Không kỳ nghỉ.
Không ngày lễ.
Không nghỉ cuối tuần.
Không trò chơi.
Không thể thao.
Không thức
khuya.
Không báo chí.
Không radio.
Không TV.
Không vẽ. Không
sơn.
Không thú
kiểng. Không hình ảnh.
Không điện.
Không đèn dầu.
Không đồng hồ
treo tường hay đeo tay.
Không hy vọng.
Không đời sống.
Một phần ba dân
số đã không tồn tại.
Chế độ thì
chết.
----------------
Đinh Linh dịch từ nguyên bản tiếng Anh,
từ tập Corpse
Watching (Tinfish
2007)
Source: Tienve.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com