BÀI HỌC
ĐẦU TIÊN TRONG
KABBON MUK THRUH PALEI
I.
Tác giả và tác phẩm
Kabbon
Muk Thruh Palei là một
trong ba tập thơ giáo huấn còn lưu truyền trong dân gian Chăm gồm có :
Ariya
Patauw Adat Likei
Ariya
Patauw Adat Kamei
Ariya Muk
Thruh Palei*
Khi đối
chiếu nội dung giữa hai tác phẩm Ariya Patauw Adat Kamei và Kabbon Muk Thruh
Palei, chúng ta dễ nhận ra sự tương đồng trong quan điểm giáo dục, những tình
huống cần giải quyết trong sinh hoạt đời sống, thậm chí có sự trùng lắp câu chữ
giữa hai tác phẩm. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có sự quan hệ, gắn bó hữu cơ
giữa hai nội dung tác phẩm đến vậy. Do đó chúng ta cần phân tích rạch ròi vị
trí giữa hai tác giả của hai tác phẩm mà trong một chừng mực nào đó nội dung
tuy có hai tên gọi khác nhau nhưng gần như tuy hai mà một.
1.
Nhân thân tác giả
Thử nghe
cách nhập đề của Ariya Patauw Adat Kamei.
Dak
dauk tamuh di tian
Bbut mưk
bi-ar vak ariya
Tathit ka
dơm dara
Pơng ariya
patauw adat
Đó là
giọng điệu của một người cha, một người đàn ông lời lẽ dứt khoát nghiêm khắc
mang tính mệnh lệnh. Còn cách mở lời của Muk Thruh Palei :
Ni
kabbon Muk Thruh Palei
Kakei đom
blauh kakei piơh ka anưk
Anưk pơng
amaik akhan
Ka dom
phwơl jalan ngap bbơng angwei
Đó là
lời lẽ của một người mẹ, một người đàn bà. Giọng điệu dịu dàng tha thiết mang
tính khuyên răn nhắn nhủ. Chúng ta không vội xác định tác giả là đàn bà khi gặp
từ Muk (bà) hay Amaik (mẹ) vì biết đâu đó chỉ là một nhân xưng ảo, mà cần bám
sát vào diễn biến tâm lý và phong cách giáo huấn để xác định giới tính. Đó là
nét đặc thù để người viết chọn giới thiệu Kabbon Muk Thruh Palei thay vì Ariya
Patauw Adat Kamei.
2.
Thời điểm ra đời
Không
thể xác định chắc chắn, nhưng qua bối cảnh sinh hoạt và cách dùng từ có pha lẫn
tiếng Việt như:
Bbơng
hang: ăn hàng, tieng: tiếng (tăm), lauw: lo lắng, lang xaum: làng xóm
Thì có
lẽ Kabbon Muk Thruh Palei ra đời. khoảng nửa thế kỷ 19 sau biến cố Lê Văn Khôi
(1833-1835) sau khi dân Chăm được tờ chiếu của Thiệu Trị thôi truy nã đã từ
khắp vùng rừng núi lánh nạn trở lại cuộc sống an bình trong thôn xóm. Vương
quốc Champa hoàn toàn tan rã để lại một khoảng trống to lớn trong thiết chế xã
hội, nền nếp sinh hoạt đời thường, giáo dục luân lý đạo đức cùng với sự cộng cư
đan xen với người Việt trong một môi trường sống mới. Kabbon Muk Thruh Palei ra
đời là cần thiết và tất yếu để củng cố chắn chỉnh lại một cộng đồng rời rã, một
nền móng văn hóa phôi pha, một tâm lý hoang mang…và để làm lại từ đầu.
Qua cách
dẫn truyện giữa hai Ariya chúng ta có thể xác định định rằng Ariya Patauw Adat
Kamei được viết trước, do chính tác giả xác định và Kabbon Muk Thruh Palei là
thành quả của sự sưu tầm chắt lọc lại cho phù hợp với địa phương, điều kiện
giáo dục.
Ariya
Patauw Adat Kamei viết:
Adat
kamei khik sang
Ralo bbơng
hang gơp gan bilei
Kahria
ngap mưnhim liwei
Jwai đom
bilei panwơc urang
Ở địa
phương này ngành chính là trồng bông dệt vải nhưng ở nơi Muk Thruh Palei thì
không. Họ làm ruộng trồng lúa và thuê mướn nhiều nhân công giúp việc với nhiều
nông cụ phục vụ sản xuất:
Li-i
saung cangwa
Tapei
blauh ba mưk mai ramik
Halơw jwai
klak bauh
Cangwa
jwai tatauh, ging jwai papơr
Khi
Ariya Patauw Adat Kamei chỉ với hai câu kết:
Pơng
abih bixamơr
Khik blauh
kanơl bithrwai di tian
Thì Muk
Thruh Palei căn dặn đúc kết kỹ hơn.
Pơng
blauh angwei baik
Kabbon ni
amaik twơk caik di sang
Hadiip
saung pathang
Tajuh
apakar pơng baik tani
Chúng ta
cần lưu ý chữ “twơk” để biết Ariya này được phóng tác, viết theo, dựa vào những
tác phẩm đã có trước nhưng sự ra đời muộn hơn của tác phẩm không hề làm giảm
giá trị của nó nếu không nói là nêu bật sự độc sáng của Muk Thruh Palei, một bà
mẹ Chăm đầu tiên viết sách và giảng sách.
II.
Dàn ý và bố cục
Kabbon
Muk Thruh Palei được diễn giải nôm na dễ hiểu. Đó là sự khuyên bảo của một
người mẹ đối với con, một người bà đối với cháu nên lời lẽ thiên về tâm tình
hơn áp đặt và, đôi khi cảm tính hơn là logic. Cho nên có nhiều câu được lập đi
lập lại như muốn nhấn mạnh hơn chỉ là câu đệm để chuyển qua ý khác, cho chúng
ta cảm giác lời văn luộm thuộm rời rạc, mang tính văn nói hơn văn viết. Đó là
nét đặt trưng của Muk Thruh Palei mà đôi khi cách nói đó dễ thuyết phục hơn,
gần gũi hơn với các thế hệ con cháu trong khi phần tiếp thu có phần hạn chế,
non nớt…
1.
Phân đoạn và tóm tắt ý nghĩa
- Từ câu
1 đến câu 4: Giới thiệu tác phẩm, mục đích là chỉ dẫn phương cách sống.
- Từ câu
5 đến câu 18: Nền tảng của cuộc sống là giáo dục, tư cách đạo đức. Học phải đi
đôi với hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn sự nghiệp mới bền lâu.
- Từ câu
19 đến câu 46: Nhiệm vụ chính của đàn bà con gái là vun vén bảo quản của cải,
quán xuyến mọi công việc nội trợ, nhất là bếp núc.
- Từ câu
47 đến câu 80: Lời ăn tiếng nói phải cẩn thận. Không to tiếng chửi bới, không
nói chuyện người, nói xấu sau lưng…vạ lay đến chồng con, cha mẹ.
- Từ câu
81 đến câu 118: Làm việc gì cũng phải ngăn nắp nề nếp, liệu trước tính sau,
thuận vợ thuận chồng. Ổn định vật chất mới thể hiện được tình cảm.
- Từ câu
119 đến câu 170: Không ỷ lại vào cha mẹ mà tự tin vào năng lực của mình, dựa
vào chồng, biết nhường nhịn, an ủi, động viên chồng để cùng nhau xây dựng một
tương lai ấm no hạnh phúc.
- Từ câu
171 đến câu 200: Đức hạnh bên trong quý hơn hình thức bên ngoài. Vẻ mặt luôn
vui tươi hơn là chưng diện áo quần nữ trang, cư xử khoan hoà khôn khéo với
chồng chính là lo cho hậu vận của mình.
- Từ câu
201 đến câu 220: Hiếu thảo vâng lời cha mẹ, dịu dàng chung thuỷ với chồng là
thiên chức của con, của vợ, làm được như vậy thì hạnh phúc dài lâu.
- Từ câu
221 đến câu 225: Cuộc sống vợ chồng cần trang bị kiến thức để hiều biết và vận
dụng vào đời thường được đúc kết trong 7 điều đã được phân đoạn và tóm tắt theo
bố cục trên.
2. Nhận định từ một góc nhìn
Trong xã
hội Á Đông, nền tảng gia đình được xây dựng chặt chẽ lâu đời nhất phải kể đến
quốc pháp gia phong ở Trung Hoa phong kiến ngày xưa. Theo quan niệm “tam tòng
tứ đức” dưới chế độ phụ hệ cho chúng ta một hệ qui chiếu trên nền mẫu hệ để từ
đó rút ra những sự tương đồng và dị biệt. Đâu là ưu khuyết điểm, đâu là hạn chế
cần khắc phục hoặc để phát huy?
Tam
tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Vai trò của người
đàn ông luôn là trọng tâm để hướng đến, được đề cao và tôn vinh tuyệt đối trong
phát triển và kế thừa. Trong mẫu hệ Chăm cũng vậy tuy sự kế thừa có khác đi, có
nghĩa là ngược lại, kế thừa theo dòng tộc mẹ. Mặc dù phải xuất gia tòng thê
nhưng vài trò người chồng luôn được đề cao. Người vợ có nghĩa vụ và ý chí phải
phục tùng chồng, hỗ trợ và phát huy tối đa khả năng của chồng để phục vụ gia
đình, che chở bảo vệ gia đình từ phạm vi đời sống vật chất đến tinh thần. Khi
là người cha thì phải là hình tượng để con cháu noi theo, nương tựa…và là người
có vai trò, uy tín trong xã hội để người vợ nở mày nở mặt. Khi người chồng chết
đi hoặc ly hôn, con cái luôn ở với mẹ và được mẹ chăm sóc nuôi nấng chu đáo cho
đến tuổi trưởng thành. Như vậy trong bất kỳ chế độ nào, người đàn ông vẫn là
trụ cột để chèo chống và quyết định sự hưng vong trong phạm vi gia đình và xã
hội.
Tứ đức:
công dung ngôn hạnh. Ở đây Muk Thruh Palei có một sắp xếp khác và phạm trù được
mở rộng hơn được đúc kết trong mẫu apakar có thể kiến giải như sau:
Hạnh
(apakar 1) có giáo dục, tư cách đạo đức
Công (apakar 2): đảm đang tháo vát việc nội trợ
Ngôn (apakar 3): ăn nói nhỏ nhẹ, không chửi tục, nói chuyện thừa
Apakar 4 : ổn định vật chất, có thực mới vực được đạo
Apakar 5: không ỷ lại, biết phục thiện cầu tiến, tin vào sức mình
Dung (apakar 6) : nét mặt tươi tĩnh, ứng xử khoan dung độ lượng
Apakar 7: hiếu thảo với cha mẹ, chung thuỷ với chồng.
Vì mang
tính đặc thù trong chế độ mẫu hệ, người đàn bà Chăm được giới hạn vào khuôn
định trong sinh hoat gia đình, đồng ruộng, nương rẫy nên yếu tố công được quy
trong nội trợ, công việc buôn bán, tham gia xã hội không được đề cập, ngôn cũng
được hạn chế trong phạm vi gia đình, xóm làng, không có quan hệ ngoại giao
rộng, dung không ở chưng diện son phấn trang sức, trong việc làm đẹp của phái
nữ mà ở tấm lòng chân thiện, vẻ mặt luôn tươi vui và hạnh là đức tính bao trùm
cả 7 apakar nêu trên.
III.
Mẫu hệ Chăm xưa và nay
Để đọc
và cảm nhận Ariya Muk Thruh Palei theo đúng tinh thần của nó, đầu tiên chúng ta
phải biết quan điểm đó được hình thành trên nền tảng mẫu hệ Chăm. Đôi khi chúng
ta vô tình hay thờ ơ tiếp cận nó như những cuốn sách dạy làm người khác thì
chẳng thích thú… và không tìm hiểu được gì, nhất là các bạn trẻ nên chịu khó
hơn một chút, các bạn đã được sinh ra từ các bà mẹ Chăm, lớn lên trong xóm làng
Chăm, làm người Chăm với bao thử thách nghĩ suy trong tương lai và hiện tại.
1.
Mẫu hệ Chăm xưa
Theo ý
kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì có bốn nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời và
tồn tại của chế độ xã hội mẫu hệ Chăm. mặc dù qua nhiều biến động lịch sử, giao
lưu văn hoá… nhưng mẫu hệ Chăm luôn đứng vững qua các thời kỳ và là nền tảng
của một nền văn minh Champa rực rỡ trong mấy ngàn năm mà hiện nay vẫn còn đậm
dấu ấn, yếu tố nào đã quyết định cho sự tồn vong của chế độ xã hội này ?
a. Nguồn gốc nhân chủng
Người
Chăm vốn giống Mãlai – Đa đảo. Trước đó hàng ngàn năm có những bộ tộc sống quần
cư trong từng khu vực và họ đều có tập quán thờ mẫu, nêu bật vai trò người mẹ
là chủ gia đình. Sau đó qua giao lưu kinh tế văn hoá, những cuộc di cư và định
cư của những người mang văn minh Ấn-Hồi đến truyền bá, chế độ mẫu hệ dần được
củng cố và định hình có hệ thống hơn. lịch trình tiến hoá của mẫu hệ Chăm có lẽ
bắt nguồn từ đó.
b. Nguồn gốc lịch sử
Theo
truyền thuyết, vị vua thành lập vương quốc Champa cổ là Po Inư Nưgar, một nữ
vương mà chồng bà là người Trung Hoa. Bà đã rời bỏ chồng, bỏ chế độ phụ hệ để
về nước tái lập chế độ mẫu hệ. đó là huyền thoại Chăm khi ngôi tháp thờ ngài
vẫn ngàn đời hiện hữu ở thánh địa Kauthara và trên mọi miền đất nước thuộc lãnh
thổ Chăm xưa đều có đền tháp thờ ngài.
c. Nguồn gốc địa lý
Người
Chăm sống dọc theo duyên hải miền trung nơi mà dãy Trường Sơn lấn sâu vào biển
nên đất cho phát triển nông nghiệp không nhiều, đa phần lại cằn cỗi và thường
xuyên chịu tác động của hạn hán. Họ phải lên rừng khai thác lâm sản, xuống biển
khai thác hải sản dài ngày nên việc cai quản gia đình, nuôi dạy con cái đành
phải nhờ vào người vợ và mặc nhiên người vợ tiếp quản quyền làm chủ lâm thời
nhưng dường như là cả cuộc đời.
Đất nước
lại luôn bị ngoại xâm chiến tranh chết chóc, bão tố phong ba và người đàn ông
Chăm luôn phải đứng mũi chịu sào. Rừng vàng biển bạc ấy đã cho Champa cường
thịnh, cũng khiến Champa suy vong. Chỉ còn chế độ mẫu hệ Chăm…ở lại.
d. Nguồn gốc nhân văn Chăm
Văn minh
Chăm phát triển rực rỡ trên nền tảng Bàlamôn Chăm. Không thể tách rời yếu tố đó
để định nghĩa và nhận diện dân tộc Chăm. Đó là nhân sinh quan, triết lý sống để
xây dựng một thiết chế xã hội bền vững với những thành tựu văn hoá, văn học
nghệ thuật làm nên một tâm hồn, tính cách Chăm. Cho dù ảnh hưởng Ấn Giáo, Phật
Giáo, Hồi Giáo nhưng Bàlamôn Chăm vẫn độc tôn trên nền tảng mẫu hệ Chăm một
cách kỳ lạ. Một khi Bàlamôn Chăm thoái hoá không còn đứng vững, tất yếu mẫu hệ
Chăm cũng bị lung lay, bị đặt vấn đề, thậm chí bị lên án quy chụp không còn phù
hợp với trào lưu thời đại và yếu tố này đã duy trì và sẽ quyết định mẫu hệ Chăm
có phải thay đổi, giữ nguyên hay cải cách.
2.
Mẫu hệ Chăm ngày nay
Dường
như ngưòi Chăm chỉ ý thức rõ ràng mình là thành viên của chế độ mẫu hệ khi đến
tuổi trưởng thành và phải lập gia đình. Lúc đó họ phải đối phó với mâu thuẫn vợ
chồng, xung đột họ hàng, bức xúc trăn trở trong phương thức mưu sinh, tạo dựng
cho con cái. Dù sao chế độ mẫu hệ Chăm ngày nay vẫn giữ được truyền thống và
bản sắc nhưng con người với môi trường sống mới đã khác đi nhiều cho phù hợp
với tiến hoá thời đại. Không còn mô hình đại gia đình bốn thế hệ, anh em hàng
họ phải liên canh liên cư thậm chí không nhất thiết phải định cư nơi quê vợ.
Cho dù qua bao đổi thay dâu bể phong tục tập quán Chăm vẫn thế. Người con gái
Chăm vẫn cưới chồng và người con trai Chăm vẫn sang ở rể bên vợ. Đến khi chết
đi thì thân xác mới trở về nhập Kut dòng tộc mẹ. Vợ (hadiip) luôn là sự sống để
người chồng dựa vào, phát huy và cống hiến. Chồng (pathang) luôn là sự che chở,
phát triển tích tụ mọi tinh hoa cho đời sau trường tồn. Chỉ có điều sợi dây
liên kết mẫu hệ Chăm ngày xưa và ngày nay càng lơi lỏng bởi nhiều nguyên nhân
chưa thể phân tích ở đây. Do đó có nhiều sự ngộ nhận hiểu lầm hay chưa đánh giá
đúng mức về giá trị tầm vóc của chế độ này trong vòng quay cơ chế mới.
IV. Đôi điều suy nghĩ
Đến đây
chúng ta băn khoăn tự hỏi, phải chăng Kabbon Muk Thruh Palei không còn phù hợp
với thời đại, không còn giá trị thích hợp cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau,
chắc chắn ai cũng nhiều bức xúc về thực trạng sinh hoạt Chăm hôm nay với những
tiêu cực lạc hậu không đáng có nhưng chẳng ai quan tâm đến những gì mình đang
có, đang thừa hưởng với những ưu thế nhất định nếu được vận dụng thích đáng.
a. Bất cập và phổ cập
Một điều
đáng ngạc nhiên đến kỳ lạ rằng mỗi ai trong chúng ta đã đọc kỹ Kabbon Muk Thruh
Palei? Dạy bảo, diễn giải và động viên con cháu đọc hiểu tác phẩm này như một
bài học đầu tiên, bài học vỡ lòng để người con gái Chăm bước vào ngưỡng cửa mẫu
hệ Chăm. Trong khi tác giả đã căn dặn rất kỹ “đom blauh kakei piơh ka anưk”. Bà
đã dạy con cháu phải học chữ Chăm để đọc, hiểu và nằm lòng “hadơr đaum kabbon
baik mơy”. Chúng ta cứ tưởng lầm việc học hành chỉ dành ưu tiên cho con trai,
sự học của mỗi giới mỗi khác, con gái học để tu thân tề gia, con trai học để
trị quốc bình thiên hạ. Điều tâm huyết nhất được gởi gắm:
Jwai
klak kabbon jwai nai
Ngap twei
hatai drơp oh kađaung.
Người
con gái Chăm cần có giáo dục tư cách đạo đức để quán xuyến gia đình nuôi dạy
con cái, hỗ trợ chồng thành đạt trong xã hội, tức là tạo điều kiện để mang lại
kết quả tốt đẹp đến gia đình tộc họ mình. Ngày nay, ít người con gái Chăm thể
hiện được phẩm chất mà Muk Thruh Palei dạy bảo để từ đó có sự hoà thuận trong
gia đình, sự kết hợp trong sinh kế, sự quan hệ với láng giềng. Không được vẹn
toàn như ý, hãy nhìn nhận đúng vấn đề, tự trách mình hơn là trách người khác.
b. Cần thiết và cấp bách
Chúng ta
thường than phiền rằng không được thừa hưởng gì nhiều từ cha ông, chỉ với
Kabbon Muk Thruh Palei, Ariya Patauw Adat Kamei… chúng ta không chịu tìm đọc
thì cứ ngồi đó mà trách trời đất hoặc lên án phê phán đồng tộc. Chúng ta có một
trung tâm văn hoá Chăm để sưu tầm, nghiên cứu xử lý và quảng bá những tinh hoa
vào thực tiễn cuộc sống, một ban biên soạn sách chữ Chăm với những chương trình
lồng ghép, gợi ý những bài học vỡ lòng thiết thực để rồi nâng cao đúng tầm vóc,
còn bao cơ quan ban ngành khác như viện khoa học xã hội, các trường đại học…các
đề tài luận án chỉ mang tính báo cáo thống kê đại trà. Chúng ta ngao ngán bởi
con em hỗn xược bất hiếu, nơm nớp lo âu viễn cảnh mại dâm tiêm chích, cướp bóc
trấn lột…để rồi thở dài phó thác. Người lớn làm việc lớn người nhỏ làm việc
nhỏ. Nhà nước đang dồn sức sưu tầm sử thi Tây nguyên, sử thi Raglai…trong tầm
vĩ mô thì các trí thức Chăm có thẩm quyền chức năng cũng nên bỏ chút ít thời
giờ trong tầm vi mô. Dạy con cháu mình những gì tổ tiên mình mong đợi. Hãy bắt
đầu từ Muk Thruh Palei như Muk Thruh Palei đã bắt đầu từ mấy trăm năm trước, có
lẽ… phải vậy thôi!
V.
Trở về mái nhà chung
Tổng thư
ký Liên hiệp quốc Kofi Annan đã nói “giáo dục một đứa trẻ gái là giáo dục cả
một gia đình”. Đó là châm ngôn có hiệu ứng với toàn nhân loại, với bất kỳ công
dân của bất kỳ đất nước nào trên thế giới. Đối với người Chăm trên nền tảng mẫu
hệ lại càng thấm thía hơn, không phải bó hẹp trong một gia đình mà còn lan rộng
ra phạm vi cộng đồng, văn hoá Chăm đã định nghĩa như thế và Muk Thruh Palei đã
nói lại như thế.
Trong
chủ trương bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, người Chăm có ưu thế
hơn các dân tộc anh em khác sống trên đất nước Việt Nam là kế thừa một nền văn
minh Champa nguyên bản với những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể đồ sộ
khác thường. Phụ nữ Chăm cũng có ưu thế nhất định để phát huy vai trò của mình
không chỉ trong khuôn khổ gia đình như trước mà đang và sẽ phát huy tư thế của
mình trong xã hội theo trào lưu hoà nhập toàn cầu hoá. Trong khi phụ nữ phụ hệ
đang vất vả đấu tranh đòi hỏi quyền bình đẳng nam nữ thì phụ nữ mẫu hệ Chăm
nhàn nhã xỏ mũi chồng về nhà mình để giáo huấn chỉ đạo. Đàn ông Chăm có hư đốn
quậy phá chút ít các bà các cô cũng nên thông cảm, nhường nhịn, an ủi và động
viên, giác ngộ hơn là cằn nhằn chỉ trích đanh đá và nhất là “khiêng về nhà nó”
trước thời hạn. Dĩ nhiên và tất yếu cũng nên khuyên đàn ông Chăm hãy đọc kỹ Ariya Patauw Adat Likei, Glơng Anak, Pauh
Catwai… để tôi luyện bản lĩnh, tri thức và thể hiện mình. Đàn ông
luôn là trụ cột của gia đình nhưng môi trường sống thời thế không còn như xưa,
miếng cơm manh áo không còn dễ dàng hơn trước, của cải dồi dào từ rừng vàng
biển bạc không còn mang về đấy ắp, để người vợ tiếp quản vun vén như thuở nào –
hôm nay nhiều cha mẹ phải rời bỏ gia đình đi làm ăn xa, bỏ lại con cái không
người quản giáo – những đứa con Chăm cũng phải rời làng vào phố kiếm sống với
bao thử thách cám dỗ, nhiều gia đình lục đục bất hoà không hạnh phúc vì bất lực
mưu sinh, bất kham trong học phí để con cái thành tài. Hãy nhớ lời “Muk Thruh
Palei” như là bài học đầu tiên cũng là bài học cuối cùng, có thể.
* Phân
tích dựa theo văn bản Chăm được công bố bởi Inrasara trong: Văn học Chăm II – Trường ca, NXB
Văn hóa Dân tộc, H., 1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
thach.michelia@gmail.com